»
mục lục
PHẦN II - BÌNH DỊCH
CHƯƠNG 13
TỲ BỘ
脾 部
A. KINH
VĂN
1. Tỳ bộ chi cung, thuộc Mậu kỷ,
脾 部 之 宮 屬 戊 己
2. Trung hữu Minh Đồng, hoàng thường lý.
中 有 明 童 黃 裳 裏
3. Tiêu cốc tán khí, nhiếp nha xỉ,
消 穀 散 氣 攝 牙 齒
4. Thị vi Thái Thương, lưỡng Minh Đồng,
是 為 太 倉 兩 明 童
5. Tọa tại Kim đài, thành cửu trùng,
坐 在 金 臺 城 九 重
6. Phương viên nhất thốn Mệnh môn trung.
方 圓 一 寸 命 門 中
7. Chủ điều bách cốc, ngũ vị hương,
主 調 百 穀 五 味 香
8. Tịch khước hư luy, vô bệnh thương,
辟 卻 虛 羸 無 病 傷
9. Ngoại ứng xích trạch, khí sắc phương.
外 應 尺 宅 氣 色 芳
10. Quang hoa sở sinh, dĩ biểu minh,
光 華 所 生 以 表 明
11. Hoàng cẩm ngọc y, đới hổ chương.
黃 錦 玉 衣 帶 虎 章
12. Chú niệm Tam Lão, tử khinh tường,
注 念 三 老 子 輕 翔
13. Trường sinh cao tiên, viễn tử ương.
長 生 高 仙 遠 死 殃
B. LƯỢC DỊCH
Tỳ bộ chi cung, thuộc Mậu Kỷ,
Hoàng Thường Minh đồng, lập cư vị,
Tiêu cơm tán khí, vững nha xỉ,
Đều nhờ Tỳ vị, lưỡng Minh Đồng.
Thần tại Kim Đài, thành Cửu trùng,
Vuông tròn một tấc Mệnh môn trung.
Chủ điều bách cốc, ngũ vị hương,
Khiến hình béo tốt, thân an khương,
Ngoại ứng dung nhan, sắc nhuận hường.
Tỳ mạnh, hóa nên dung nhan đẹp.
Y phục gấm vàng, đeo hổ phù,
Chuyên niệm Tam Lão, người nhẹ nhàng,
Trường sinh cao tiên, thoát tử ương.
C. CHÚ THÍCH
Câu 1. Tỳ bộ chi cung thuộc Mậu kỷ.
脾 部 之 宮 屬 戊 己
Tỳ thuộc Thổ, tức là Trung Cung, Mậu kỷ, theo Dịch và Hà Đồ, Lạc Thư. Tỳ
thổ có màu vàng. Nên phẩm phục của Thần Tỳ đều là màu vàng.
Câu 2. Trung hữu Minh đồng, hoàng thường lý.
中 有 明 童 黃 裳 裏
Minh đồng
明 童:
Thần Tỳ, còn có tên là Hỗn Khang, Hồn Đình.
Câu 3. Tiêu cốc, tán khí, nhiếp nha xỉ.
消 穀 散 氣 攝 牙 齒
Tiêu cốc
消 穀:
Tiêu cơm.
Tán khí
散 氣:
Làm cho khí lưu chuyển.
Nhiếp nha xỉ
攝 牙 齒:
Làm cho vững răng.
Câu 4. Thị vi Thái Thượng, lưỡng Minh đồng.
是 為 太 倉 兩 明 童
Thái Thượng:
Vị.
Tỳ với Vị hợp với nhau thành Lưỡng thổ, đều cùng chung nhiệm vụ tiêu
hóa. Nên thần Minh Đồng cũng có 2. Bởi thế nói: Thị vị Thái thượng,
lưỡng Minh Đồng.
Câu 5. Tọa tại kim đài, thành cửu trùng.
坐 在 金 臺 城 九 重
Tử Hà cho rằng: Thần tỳ vị ngự tại Huyền quan nhất khiếu.
Kim đài
金 臺:
Đài vàng. Cửu trùng
九 重:
Chín tầng.
Câu 6. Phương viên nhất thốn mệnh môn trung.
方 圓 一 寸 命 門 中
Vuông tròn 1 tấc, ở giữa mệnh môn.
Câu 8. Tịch khước hư luy, vô bệnh thương.
辟 卻 虛 羸 無 病 傷
Tịch khước
辟 卻:
Trừ khử.
Hư luy
虛 羸:
Hư hao, gầy mòn.
Vô bệnh thương
無 病 傷:
Không bệnh nào làm hại được.
Câu 9. Ngoại ứng Xích trạch, khí sắc phương.
外 應 尺 宅 氣 色 芳
Bản Tử Hà chép: Ngoại ứng Thiên trạch, khí sắc phương
外 應 天 澤 氣 色 芳.
Xích trạch
尺 宅:
Mặt.
Theo Tử Hà, thì Thiên trạch
天 澤
là quẻ Lý (Thiên trạch Lý
天 澤 履).
Lý là dáng đi điệu đứng. Tôi theo Vụ Thành Tử,
giải Xích trạch là mặt. Cách giải này, hợp với văn mạch, từ
chương tám tới đây. Nội tạng bao giờ cũng ứng với một bộ phận nào ở bên
ngoài: phế ứng mũi, tâm ứng miệng lưỡi, gan ứng mắt, thận ứng tai, tỳ
ứng mặt...
Câu 10. Quang hoa sở sinh dĩ biểu minh.
光 華 所 生 以 表 明
Quang hoa sinh ra bên trong, lấy cái bên ngoài (biểu
表)
để minh chứng (minh
明).
Câu 11. Hoàng cẩm ngọc y, đới hổ chương.
黃 錦 玉 衣 帶 虎 章
Hoàng cẩm
黃 錦:
Áo vàng. Đới
帶:
Đeo.
Câu 12. Chú niệm Tam Lão, tử khinh tường.
注 念 三 老 子 輕 翔
Chú niệm Tam Lão
注 念 三 老:
Tam Lão đây là Nguyên Lão, Huỳnh Lão, Huyền Lão.
Tức là niệm tỳ trung Chân nhân
脾 中 真 人.
Tử Hà lại cho rằng Tam lão là Nê Hoàn chi Chân Dương
泥 丸 之 真 陽,
là Ngọc đế chi tân (khách) lão
玉 帝 之 賓 老,
tên là: Tam Tố Lão quân
三 素 老 君,
hay là Hãn Trương Ông
罕 張 翁,
hay là Tam Lão Tố Hãn Trương
三 老 素 罕 張
hay là Tam Tố sinh Nê Hoàn
三 素 生 泥 丸
hay là Lão quân
老 君
hay là Hãn Trương Thượng
罕 張 上.
Đem Ý chú Nê Hoàn, thời Chân dương sẽ phá đỉnh mà ra.
Tử
子:
là anh, là người tu Huỳnh Đình.
Khinh tường
輕 翔:
Nhẹ nhàng bay lượn.
Câu 13. Trường sinh cao tiên, viễn tử ương.
長 生 高 仙 遠 死 殃
Tử ương
死 殃:
Nạn chết chóc. Viễn tử ương
遠 死 殃:
Thoát nạn chết chóc.
D. BÌNH
GIẢNG
Chương này nói về Tỳ. Tỳ có vị trí hết sức quan trọng: vì nó ở vào TRUNG
ƯƠNG, MẬU KỶ THỔ, Thần Tỳ là Minh Đồng hay Hồn Đình, hay Hỗn Khang (Câu
1). Tỳ với Vị đi với nhau là Lưỡng Thổ, nên thần của Tỳ vị cũng gọi là
Lưỡng Minh Đồng (Câu 2).
Thần Tỳ Vị ở trung cung Huỳnh Đình, vuông tròn khoảng 1 tấc (Câu 5,6).
Tỳ chủ tiêu hóa, nên trừ được những bệnh gầy ốm. Tỳ ứng với mặt, tỳ tốt,
thì mặt đẹp (Câu 7, 8, 9, 10, 11).
Nơi chương này, ta có thể có hai nhận định sau:
1. Tử Hà khi bình câu «Tọa tại Kim đài, thành cửu trùng», đã cho
rằng Tỳ thần ở Huyền quan nhất khiếu.
Vụ Thành Tử khi bình câu «Hoàng cẩm ngọc y, đới hổ chương» đã cho
rằng Tỳ là chủ Trung Hoàng, và câu này cũng tương đương với câu
«Huỳnh Đình chân nhân ý chu y».
2. Khi bình câu «Chú niệm Tam Lão, tử khinh tường» Tử Hà đã cho
rằng Tam Lão đây là Huyền Lão, Hoàng lão, và Nguyên Lão. Và Tử Hà còn
cho rằng Tam Lão đây chính là Thần Nê Hoàn?
Đọc các lời bình giải, và nghiền ngẫm chính kinh, ta sẽ thấy ngay rằng
tư tưởng của người xưa rất là mơ hồ, khi cần minh định đâu là Huỳnh
Đình, đâu là tâm điểm con người, và có sự lẫn lộn giữa Nê Hoàn và Trung
đan điền.
Có sách thì cho rằng: Nê Hoàn là Huyền quan khiếu. Tam Lão là thần Nê
Hoàn.
Nê Hoàn cũng chính là Huỳnh Đình.
Có nơi thì lại cho rằng: Tỳ là Huyền quan khiếu.
Tỳ là Huỳnh Đình.
Tam Lão là thần Tỳ.
Riêng tôi, thì tôi vẫn chủ trương: Nê Hoàn cung, là Huyền quan khiếu, có
thần Tam Lão, có Thần Trời ngự trị, nó mới chính thực là Huỳnh Đình.
Tỳ hay Trung đan điền, hay Trung hoàng. Tuy rất quan trọng về phương
diện sinh lý, nhưng không phải là Huỳnh Đình đích thực, không phải là
Huyền quan khiếu.
Ở nơi đó, theo Y học hiện nay, có Tùng Thái Dương (tùng thần kinh mặt
trời, plexus solaire). Mà các tùng thần kinh trong người có thể được coi
như là những nơi dung chứa khí lực (Accumulateurs d’énergie) chỉ vậy
thôi.
Trong quyển Thiên Tiên chính lý trực luận tăng chú
天 仙 正 理 直 論 增注
(quyển tiền
前,
tr. 6b) ta thấy ghi:
Đan điền có ba:
-
KHÍ ở Trung đan,
-
THẦN ở Thượng đan,
-
TINH ở Hạ đan.
Từ Hạ điền thiên tới Trung điền, Trung điền thiên tới Thượng điền.
Thượng điền thiên xuất Thiên môn. Thế là Tam thiên công thành...
Mấy lời trên đây giúp ta nhận định được tầm quan trọng của từng Đan
điền, cũng như liên lạc giữa các đan điền với nhau, cũng như giúp ta có
một quan niệm sáng sủa về Nê Hoàn Cung, về Tỳ, về Thần, v.v...
|