HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
33.
天 山 遁
THIÊN SƠN ĐỘN
Độn Tự Quái |
遁
序 卦
|
Hằng giả cửu dã. |
恆 者 久 也 |
Vật bất khả dĩ cửu cư kỳ sở.
|
物 不 可 以 久 居 其 所 |
Cố thụ chi dĩ Độn. |
故 受 之 以 遁 |
Độn giả thoái dã. |
遁 者 退 也 . |
Độn Tự Quái
Hằng là bền vững cửu trường,
Vật đâu ở mãi, ở thường một nơi?
Cho nên Độn mới tiếp ngôi,
Độn là lui gót, tùy thời tránh đi.
Kinh Dịch có một mục đích chính yếu là dạy
cho con người biết xuất xử, hành tàng. Đại khái Dịch cho rằng, khi nào
thời thế thuận tiện, quân tử có cơ hưng phấn, đạo lý có thể mang ra thi
hành, thì người quân tử nên xuất đầu, lộ diện, góp mặt, góp công với
đời; còn như gặp khi thời thế đảo điên, tiểu nhân lộng hành, thời lúc ấy
người quân tử nên qui ẩn.
Quẻ Khôn nói: Thiên địa bế, hiền
nhân ẩn.
Đất trời mà gàng quải, thời hiền nhân
nên qui ẩn. (Khôn, Văn Ngôn, Hào bốn)
Quẻ Độn cũng không ngoài chủ trương
đó; đại khái nói rằng: Khi thanh thế tiểu nhân đang lên, người quân tử
nên biết rút lui cho hợp thời, đúng lúc, như vậy mới là biết cơ trời.
Độn có nhiều nghĩa:
- Độn là qui ẩn.
- Độn là xá lánh tiểu nhân.
- Độn là lánh nạn, v.v...
I. Thoán.
Thoán Từ.
遁 . 亨 . 小 利 貞 .
Độn. Hanh. Tiểu lợi trinh.
Dịch.
Rút lui ẩn lánh mới hay,
Ở ăn chính đáng, lợi nay vẫn còn.
Thoán Từ viết:
Độn. Hanh. Tiểu lợi trinh.
Trình Tử và Chu Tử giải mỗi người một cách. Trình Tử cho rằng: Thoái
tàng để giữ cho đạo lý được chu toàn. Người quân tử gặp lúc tiểu
nhân đang lên, vẫn có thể khéo xử mà vớt vát, vãn hồi tình thế được phần
nào. Như vậy ba chữ Tiểu lợi trinh có nghĩa là làm việc lớn
không lợi, làm việc nhỏ cũng còn có lợi. Chu Hi giải chữ tiểu
là tiểu nhân, và cho rằng: lúc đang gặp thời mà tiểu nhân giữ
được chính đạo cũng lợi.
Các nhà bình giải Dịch, thường theo một
trong hai cách này: Kiến An Khâu thị cho rằng: Độn. Hanh là
khuyên quân tử nên rút lui, để mọi sự được êm đẹp (Độn nhi hanh dã).
Tiểu lợi trinh là khuyên tiểu nhân hãy xử cho phải, đừng lăng bức
người quân tử quá mức. (Xem Đại Toàn). Ta ghi nhận một định lý như sau:
Độn 2 Âm ở dưới, 4 Dương ở trên. Âm đang thế tiến, Dương đang thế thoái:
tức là Âm trưởng, Dương tiêu (Quân tử kiến cơ nhi tác). Thấy vậy,
sẽ lo việc thoái taàng, qui ẩn.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 遁 亨 . 遁 而 亨 也 . 剛 當 位 而 應 . 與 時 行 也 .
小 利 貞 . 浸 而 長 也 . 遁 之 時 義 大 矣 哉 .
Thoán viết:
Độn hanh. Độn nhi hanh dã. Cương đáng vị nhi ứng. Dữ thời hành
dã.
Tiểu lợi trinh. Tẩm nhi trưởng dã. Độn chi thời nghĩa đại hỹ
tai.
Dịch.
Rút lui ẩn lánh mới hay,
Tuy mình quyền lực trong tay vẫn còn.
Cương cường xứng với ngôi trên,
Còn người hưởng ứng, vẫn còn oai nghi.
Biết thời, tới lúc nên về, Theo thời
hành sự, mọi bề hanh thông.
Phù trì chánh đạo một lòng,
Tiểu nhân ảnh hưởng đang dâng, ngại gì.
Công trình ấy chẳng lớn chi,
Nhưng mà lợi ích thường khi vẫn còn.
Trong Thoán Truyện, đức Khổng cũng
nhận định đại khái rằng:
1- Rút lui hợp thời trời, mới êm đẹp. (Độn
nhi hanh dã)
2- Rút lui phải cho đúng thời, đúng lúc;
rút lui hay nhất là khi mình còn đang ở trong thế kẻ mạnh, có quyền, có
vị, có người hưởng ứng. (Cương
đáng vị nhi ứng.
Dữ thời hành dã.)
3- Rút lui là nên, vì người quân tử sáng
suốt nhận định được rằng ảnh hưởng của tiểu nhân đang lừng lững tiến
lên. (Tiểu lợi trinh. Tẩm nhi
trưởng dã.)
4- Rút lui hợp thời là một công
chuyện không nhỏ, không dễ. (Độn chi thời nghĩa đại hỹ tai.)
Lý Long Sơn bình rằng:
Âm Dương, hàn thử, đều có thời. Âm đạo lớn
thịnh là thời tiểu nhân đắc thế; lúc ấy người quân tử nhẫn nhịn để chờ
thời, sau ắt thắng. Nếu đem lòng giận dữ, hết sức kháng cự, ấy là chẳng
biết thiên thời, ắt hứng lấy những điều hung họa. Như thời Nguyên Thành
nhà Hán, Hoằng Cung, Thạch Hiển đang đắc thế ở trong, mà bọn Tiêu Vọng
Chi, Lưu Hướng, Chu Vân chẳng biết nhún nhường, mà lánh đi để đến nỗi bị
họa. Lại như trong thời Hoàn Kinh, Tào Tiết, Vương Phụ đắc thế ở trong,
mà bọn Lý Ưng, Trần Phồn, Đậu Vũ, chẳng biết nhún nhường, mà lánh đi để
đến nỗi bị giết...
Gặp thời Độn, người quân tử dẫu còn đang
có thế lực, có địa vị, cũng nên biết tùy thời mà quyền nghi. Rút
lui đúng lúc thời hay. Đời thường nói: Cửu tọa lịnh nhân
yếm (ngồi lâu khiến người ta phát chán). Mình dẫu có hay, nhưng
ngồi mãi một chức vị, đóng mãi một vai trò, rút cuộc vẫn làm cho người
chán mình, thà rút lui, khi lòng người còn luyến tiếc mới hay. Vả lại
tiệc vui cũng có lúc tàn. Người xưa nói: Thiên hạ vô bất tán đích
diên tịch. Chính là vì vậy.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰 . 天 下 有 山 . 遁 . 君 子 以 遠 小 人 . 不 惡 而 嚴
.
Tượng viết.
Thiên hạ hữu sơn.
Độn. Quân tử dĩ viễn tiểu nhân. Bất ác nhi nghiêm.
Dịch.
Tượng rằng:
Độn là núi ở trên trời,
Khiến người quân tử lánh gnười tiểu
nhân.
Chẳng cần thanh sắc dữ dằn,
Mình nghiêm họ sẽ đằng thằng lảng xa.
Độn là núi ở dưới trời. Núi cao vun vút,
vươn mình lên không trung, như muốn lăng bức trời; nhưng càng vươn lên
càng thấy trời xa lắc, y như trời muốn dùng sự cao xa của mình để phân
cách với núi non.
Người quân tử đối với kẻ tiểu nhân cũng
vậy; trong khi tiểu nhân đắc thế, mình không cần phải làm mặt giận, mày
dữ đối với họ, mà chỉ cần lập nghiêm, cũng đủ cho họ kiêng nể, xa lánh.
Đó là cách thức Khổng Tử đối đãi với Dương Hổ. Tượng viết.
Thiên hạ hữu sơn. Độn. Quân tử dĩ viễn tiểu nhân. Bất ác nhi nghiêm.
III. Hào từ & Tiểu
Tượng Truyện
Sáu Hào bàn về các cách ẩn độn, những cái
hay, cái dở trong việc ẩn độn, thoái tàng. Các nhà bình giải thường
không đồng ý với nhau về nhiều phuong diện, nhiều vấn đề.
Để có một ý niệm khái quái về 6 hào, ta có
thể mượn lời của Ngu Sơn, Tưởng vấn Thiên, tác giả quyển Dịch Lý Thước,
mà bình như sau:
Quẻ Độn mà thượng quái là quẻ Kiền. Kiền
là cương kiện, tượng trưng cho sự quyết liệt rũ bỏ mọi sự để qui ẩn. Hạ
quái là Cấn, là chỉ sự bịn rịn, lưu luyến, không rứt nổi tư tình để ra
đi. Cho nên Hạ quái không hay bằng Thượng quái.
Độn càng xa càng tốt, nên các Hào càng lên
trên càng tốt. Xét sáu Hào, thì Hào Sơ độn là lẩn quẩn ở hàng
dưới, thì đâu phải là độn thật; Hào Hai không muốn độn, mà
ở lại; Hào Ba độn mà còn bị vấn vương, sắp trốn đi mà lòng
còn chưa quyết; Hào Bốn là gạt bỏ được tư tình, mà nhẹ
nhàng cao chạy xa bay; Hào Năm là gửi mình theo chính đạo,
cho nên độn mà vẫn gặp may, gặp lành; Hào Sáu là ẩn dật,
thoát vòng tục lụy.
Nhưng cứ theo lẽ Dịch, không thể chấp nhất
và nghị luận một chiều, cần là biết thức thời.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 遁 尾 . 厲 . 勿 用 有 攸 往 .
象 曰 . 遁 尾 之 厲 . 不 往 何 災
也 .
Sơ lục. Độn vĩ. Lệ.
Vật dụng hữu du vãng.
Tượng viết.
Độn vĩ chi lệ. Bất vãng hà tai
dã.
Dịch.
Rút lui mà quẩn đằng đuôi,
Nguy rồi, dở dói lôi thôi làm gì.
Tượng rằng: Rút lui sau chót là
nguy.
Mình không dở dói, hại gì ở đâu.
Sơ Lục là những hạng người chậm chân chạy
trốn, mà chỉ lẩn quẩn ở khúc đuôi, như vậy ắt là nguy (Độn vĩ. Lệ.
Vật dụng hữu du vãng). Tuy nhiên Sơ là những hạng người tầm thường,
chẳng có chức vụ gì quan trọng, nên miễn là họ đừng dở dói gì, cứ ẩn
nhẫn, nép mình chờ thời, thì cũng chẳng đến nỗi mang tai họa (Bất
vãng hà tai dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 執 之 用 黃 牛 之 革 . 莫 之 勝 說 .
象 曰 . 執 用 黃 牛 . 固 志 也 .
Lục nhị. Chấp chi dụng hoàng ngưu chi
cách. Mạc chi thắng thoát.
Tượng viết.
Chấp dụng hoàng ngưu. Cố chí
dã.
Dịch.
Rút lui lòng đã nhủ lòng,
Khăng khăng như đã thắt bằng da trâu.
Da trâu dây thắt chặt sao,
Khít khao, chặt chẽ ai nào cởi ra?
Tượng rằng:
Giữ giàng bằng luôt da trâu,
Thế là cố chí, trước sau một lòng.
Hào Lục nhị, Trình Tử cho rằng
Nhị và Ngũ lấy nhẽ Trung chính và thuận
mà gắn bó, cố kết lấy nhau, như buộc bằng da trâu vậy. Ngô thị, Tập thị,
theo đòi Trình Tử cũng giải rằng: Lục nhị là trung thần cật ruột, không
thể bỏ nhiệm sở mà trốn đi. Đó là trường hợp Cơ Tử xưa với chủ trương
nhất định không trốn, không rút lui (Ngã bất cố hành độn).
(Kinh Thư, Vi Tử, 9).
Chu Tử và Thái Thị giải đại khái rằng:
Hào Hai gặp thời độn, biết cẩn trọng giữ gìn từ lời ăn tiếng nói,
đến hành động, cử chỉ, vaà nhất định ẩn độn, không ai can được. Hai quan
niệm trên tuy có khác nhau nhưng đều hữu lý.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 系 遁 . 有 疾 厲 . 畜 臣 妾 吉 .
象 曰 . 系 遁 之 厲 . 有 疾 憊 也 . 畜 臣 妾 吉 .
不 可 大 事 也 .
Cửu tam. Hệ độn. Hữu tật lệ. Súc thần
thiếp cát.
Tượng viết.
Hệ độn chi lệ. Hữu tật bái dã.
Súc thần thiếp cát. Bất khả đại sự dã.
Dịch.
Độn mà bịn rịn, vấn vương,
Thế là nguy hại, tai ương rành rành.
Con hầu đầy tớ quẩn quanh,
Nuôi người sai sử, âu đành rằng hay.
Tượng rằng: Bịn rịn nên nguy,
Tinh thần bải hoải suy vi bàng hoàng.
Con hầu, đầy tớ xốn xang,
Phàm làm đại sự, ham làm được đâu.
Hào Cửu tam đại khái chủ trương:
a) Đã ẩn độn, đã lánh nạn, mà bịn rịn thê
nhi (Hệ độn. Hữu tật lệ) thì rất nguy hiểm, vì đương sự sẽ khó
quyết định, khó xoay sở. Khi Trùng Nhĩ tị nạn sang nước Tề. Tề Hoàn Công
hỏi: Công tử có mang theo gia quyến không? Trùng Nhĩ thưa
rằng: Bổn phận tôi đi một mình còn khó giữ, rảnh rang chi mà mang
hết cả nhà.
b) Nhưng có vong thần, có quân hầu, đầy tớ
cũng hay (Súc thần thiếp cát. Bất khả đại sự dã). Trùng Nhĩ khi
lưu vong nhờ có bọn hiền thần là Hồ yển, Hồ mao, Giới Tử Thôi, và Triệu
Thôi, nên sau mới phục quốc được (Tấn Văn Công tức Trùng Nhĩ).
Khi đã hồi trào, Tấn Văn Công tưởng thưởng
cho những người có công; có tiểu thần Hồ Thúc tâu rằng: Tôi từ Bồ
Thành đi theo Chúa công, đi khắp bốn phương, chân đã mòn gót, ở thì tôi
lo bữa ăn, bữa ngủ; đi tôi lo nỗi ngựa xe, chớ hề phút nào rời Chúaa
công bên tả bên hữu, nay Chúa công ban thưởng kẻ tòng vong, mà chẳng
nhắc tới tiểu thần, tưởng khi tiểu thần có tội chi chăng? Tấn Văn Công
nói: Ngươi bước tới đây, ta nói rõ cho ngươi nghe: vả những người dạy ta
nhân nghĩa, khiến ta mở mang gan phổi, thì được thượng thưởng; giúp ta
dùng mưu lược, khiến ta chẳng phục tùng chư hầu, thì được thứ thưởng;
xông tên đá, lướt mũi nhọn, lấy thân che đỡ cho ta, thì được kế thứ
thưởng. Cho nên thượng thưởng là thưởng đức; thứ thưởng là thưởng tài,
kế thứ là thưởng công; còn như đi đứng nhọc nhằn là sức kẻ thất phu;
phải sau bậc tam thưởng, chừng đó mới tới ngươi. Hồ Thúc nghe thì bằng
lòng, mắc cỡ mà lui ra.
Lời của tấn văn Công giúp ta hiểu tại sao
Súc thần thiếp mà lại cát của Hào này.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 好 遁 君 子 吉 . 小 人 否 .
象 曰 . 君 子 好 遁 . 小 人 否 也 .
Cửu tứ. Hiếu độn quân tử cát. Tiểu nhân
phủ.
Tượng viết.
Quân tử hiếu độn. Tiểu nhân
phủ dã.
Dịch.
Rút lui quên hết riêng tư,
Hiền nhân thời tốt, phàm phu chẳng
lành.
Tượng rằng:
Hiền nhân thích chuyện rút lui,
Tiểu nhân, trái lại khó rời chân đi.
Hào Bốn cho rằng chỉ người quân tử
mới cắt đứt được tư tình, dám vì công nghĩa mà rứt áo ra đi; còn kẻ tiểu
nhân thì bịn rịn vấn vương, khác hẳn người quân tử (Cửu tứ. Hiếu độn
quân tử cát. Tiểu nhân
phủ dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 嘉 遁 . 貞 吉 .
象 曰 . 嘉 遁 貞 吉 . 以 正 志 也 .
Cửu ngũ. Gia độn. Trinh cát.
Tượng viết.
Gia độn trinh cát. Dĩ chính
chí dã.
Dịch.
Rút lui êm ả tốt sao
Đường đường, chính chính, nhẽ nào chẳng
hay.
Hào Cửu ngũ đắc trung, đắc chính,
nên mới dùng chữ Gia độn, là rút lui một cách đẹp đẽ.
Nói đến Gia độn, ta liên tưởng đến
Charles de Gaulle. Năm 1946, khi đang làm thủ tướng lâm thời nước
Pháp, chán cảnh nội các chia làm năm bè, bảy bối, ông liền từ chức. Ông
nói: Các ông đã vì đảng phái, mà cãi cọ, chia rẽ nhau. Tôi không
chấp thuận điều đó, nhưng trừ phi thiết lập chính sách độc tài, đó là
điều tôi không muốn, và là chuyện sẽ có kết cuộc chẳng hay; tôi không
còn cách nào để ngăn ngừa được cơ sự các ông đang làm này; vì vậy tôi
phải rút lui. Nếu các ông thất bại, ít ra tôi còn được nguyên vẹn.
(Trích báo Time, Nov. 23, 1973, page 1).
Sau một thời gian, lập đảng chính trị và
tái xuất giang hồ, năm 1955, ông lại rút lui vào bóng tối. Ông tuyên bố
cùng quốc dân Pháp: Tôi có lời từ giã các bạn, chúng ta sẽ không
gặp nhau lại, trừ phi giông tố dập vùi nước Pháp.
Năm 1958, chiến tranh Algérie là giông tố,
muốn dập vùi nước Pháp thật sự, các tướng lãnh và quân đội yêu cầu ông
ra cứu vãn tình hình. Ông bằng lòng, với điều kiện phải để ông lập chế
độ Tổng thống. Ông chủ trương Ngị viện bàn cãi, các Tổng bộ trưởng cai
trị, viện bảo hiến suy nghĩ, Tổng thống của nền cộng hòa quyết định. Làm
Tổng thống từ năm 1958 đến 1969, ông thấy dân chúng có vẻ chán ông,
không còn tín nhiệm ông như cũ, ông liền từ chức năm 1969, tuy ông còn
mấy năm nhiệm kỳ, ông về quê là Colombey, và đánh lên Paris 1 điện văn
từ chức, vắn tắt như sau: «Tôi không giữ chức Tổng thống của nước Cộng
Hòa nữa. Quyết định này có hiệu lực kể từ trưa hôm nay.»
Vì biết rút lui đúng lúc, khi mà
mình hãy còn nhiều uy quyền, thế lực, nên ông giữ được lý tưởng ông, do
đó mà chẳng những nước Pháp, mà cả thế giới cảm phục ông. thật đúng là
Gia độn trinh cát. Dĩ chính
chí dã. Các công thần khi đã làm xong nhiệm vụ giao phó, liền qui
ẩn, vui thú điền viên, chứ không vì lợi lộc mà nấn ná lại chốn triều
đình. Kinh Thư viết: Thần võng nhi sủng lợi cư thành công (Kinh
Thư, Thái Giáp hạ, 9.)
6. Hào Thượng cửu.
上 九 . 肥 遁 . 無 不 利 .
象 曰 . 肥 遁 . 無 不 利
. 無 所 疑 也 .
Thượng cửu.
Phì độn. Vô bất lợi.
Tượng viết.
Phì độn vô bất lợi. Vô sở
nghi dã.
Dịch.
Rút lui hớn hở mới hay,
Thế nên ích lợi, mắn may mọi đàng.
Tượng rằng:
Rút lui hớn hở vẹn toàn,
Là vì dạ chẳng nghi nan, lo lường.
Thượng cửu. Phì độn. Vô bất lợi.
Phì độn là độn, là rút lui mà lòng khoan khoái, vì thế mà làm việc gì
cũng hay cũng lợi. Gọi là Phì độn, vì Hào Thượng Cửu là vô vị,
tượng trưng cho một hiền tài, muốn thoát vòng cương tỏa, lợi danh. Chỉ
lấy đạo đức làm cao lương, lấy nhân nghĩa làm mỹ vị, như
vậy đúng là Phì độn. Hào này khiến ta nhớ đến trường hợp trương
Lương. Trương Lương sau khi giúp Bái Công thống nhất Trung Nguyên,
uy tín lừng lẫy, liền xin rút lui qui ẩn, đóng cửa từ khách, để tu tâm
dưỡng tánh.
Con ông là Trương Tích Cường một hôm hỏi
ông: Nay cha đã làm thầy của vua, ghe phen lập nhiều công lớn, làm quan
tới chức tam công, lẽ thì ăn ngọc thực muôn chung, an hưởng giàu sang,
lâu dài với nước, làm công thần muôn đời, cũng chẳng phải là quá lắm,
sao lại đóng cửa từ khách, ở chỗ vắng vẻ mà chịu thanh khổ như vầy, là ý
chi vậy?
Trương Lương nói: Con biết sao được, vả
chăng trong đời mà ham giàu sang, là vui công danh đã được, mừng vinh
hoa nhãn tiền, ngồi cao mà hưởng, nhất hô, bá ứng, thê thiếp đầy nhà, ca
xướng đầy tai, thì đã gọi là cái chí bình sinh đã tột rồi, chứ chẳng có
biết ngôi cao tột bực nhân thần, thì thiên hạ hay ghen ghét, trèo cao
không lẽ mà không té, chứa đầy không lẽ không tràn; vua nghi mình quyền
trọng, trời ghét kẻ đầy tràn; kẻ ghét đã mong lòng gấm ghé, người hiềm
chờ dịp đẩy đưa, chẳng may mà cửu trùng sinh giận, nhiều miệng xúi nói
vào, thì chừng ấy hết kẻ đỡ che, chạy đi đâu cho khỏi, có phải mình đã
bị hại mà vợ con lại mang tai; phú quý vinh hoa phủi tay trong nháy mắt.
Chi cho bằng vui chơi non nước, hưởng thú giang hồ, say túi càn khôn,
giỡn bầu nhật nguyệt, riêng ở một nhà, vào ra thong thả, tuy ở vắng vẻ
một mình mà trong lòng khoái lạc; thà ăn rau cỏ sớm trưa, mà toại chí
tiêu dao, vinh nhục khỏi lo, không màng danh lợi, an thân bảo mạng,
thong thả trọn đời, giữ trọn tiếng luong thần, chẳng hơn cuộc vinh hoa
phú quý sao? Trương Tích Cường bái phục và nói rằng: nay con mới biết ý
cha, ấy là đạo minh triết bảo thân đó.
ÁP DỤNG QUẺ
ĐỘN VÀO THỜI ĐẠI
Nếu ta làm thương mại nhỏ, mà có kẻ mở cơ
sở cùng nghề với ta, gần địa điểm thương mại của ta, nhưng lớn mạnh
hơn ta, cốt ý chèn ép ta, thì ta phải lo rút lui, càng sớm càng tốt,
sẽ đỡ bị thiệt hại hơn.
Nếu ta đi làm nơi hãng xưởng, mà gặp phải
tiểu nhân có thế lực mạnh hơn ta, mà ta không thể thân thiện với
họ được, vì bất đồng chính kiến, hoặc tư tưởng, thì ta cũng liệu tìm sở
khác, để cho tâm tư thanh thản hơn, và để tránh những va chạm, có thể
gây nguy hại cho mình sau này.
Nếu khi đã lập gia đình, mà phải ở chung
với đại gia đình, thì ta phải biết lễ độ, kính trên, nhường dưới,
nhưng nếu chẳng may sự kính nhường đó cũng không thể làm vừa lòng mọi
người, thì ta nên cùng vợ hay chồng ra ở riêng một cách êm đẹp thì hơn.
Khi tuổi đã xế chiều, ta phải liệu từ bỏ
bớt công việc, để đỡ hại cho sức khỏe, và phải giữ sao cho tâm thần
thanh thản, nụ cười luôn nở trên môi, hướng về Thương Đế, chớ đừng lúc
nào cũng than oán, cáu kỉnh, giận hờn, thì không nên vậy. ta nên như câu
thơ này:
Răng long đầu bạc mặc tình,
Đừng bao giờ nói rằng mình già nua.
Thần thông trời đã phú cho,
Bạc đầu, lòng vẫn phởn phơ, nhẹ nhàng.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|