52.
艮 為
山
CẤN VI SƠN
Bát
ThuẦn CẤn
Cấn Tự Quái |
艮 序 卦 |
Vật bất khả
dĩ chung động. |
物 不 可 以 終 動
. |
Chỉ chi. |
止 之
.
|
Cố thụ chi
dĩ Cấn. |
故 受 之 以 艮
. |
Cấn giả chỉ
dã. |
艮 者 止 也
. |
Cấn Tự Quái
Vật nào chuyển động mãi đây.
Động rồi cũng sẽ có ngày dừng chân.
Cho nên lấy Cấn mà ngăn.
Cấn là
ngưng nghỉ, là dừng chẳng đi.
Cấn là núi, là
ngưng nghỉ, là dừng lại. Sau quẻ Chấn tiếp theo quẻ Cấn, vì sự đời
động mãi, cũng có lúc phải ngưng, biến dịch mãi cũng có lúc phải kết
thúc.
Quẻ Cấn
này nếu hiểu theo nghĩa đen, thì ngớ ngẩn hết sức, nhưng nếu chúng ta
dùng cái nhìn toàn bích để nhìn vào quẻ, nếu chúng ta hiểu Huyền
nghĩa của quẻ, thì quẻ Cấn trở thành một quẻ rất cao siêu.
Trước
hết, nếu ta có cái nhìn toàn bích, ta sẽ nhận ra rằng: Dịch Trung
Hoa có 2 vòng Dịch Tiên Thiên (Phục Hi), và Dịch
Hậu thiên (Văn Vương). Khoa chiêm tinh học Âu
Châu cũng có 2 cách nhận định về vòng Hoàng
Đạo. Đem đối chiếu, ta sẽ thấy tương quan như sau:
1.
Vòng Dịch Tiên Thiên
gồm 8 quẻ của Phục Hi, là Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn,
Khôn, sau biến thành 64 quẻ, và vòng Hoàng Đạo 1 (Tiên
Thiên) của Tây phương. Ở 2 bản đồ phía dưới, ta thấy chu kỳ
biến dịch chia làm 2
chặng:
a. Chặng 1 từ Cấu đến Khôn (hay Tốn đến Khôn), hoặc từ
Cự giải đến Nhân mã. Đó là giai đoạn tán của
vũ trụ và thoái hóa của con người. Thiệu tử cho rằng Cấu
là đầu chặng đường, để con người ra đi, thăm thú Động nguyệt
(ngoại cảnh vật chất). Macrobe thì cho rằng Cự giải
là cửa người (La porte
des hommes).
b. Chặng 2 từ Phục đến Kiền, hay từ cung Ma Yết
đến cung Song tử. Đó là giai đoạn tụ
của vũ trụ, giai đoạn tiến hóa của con người (évolution).
Thiệu tử
cho rằng Phục là khi con người thấy được Thiên địa
chi tâm, tức là khởi đầu chặng đường qui căn,
phản bản. Macrobe cho rằng Ma Yết là cửa
Thần minh (La porte des Dieux)
Vòng Dịch Hậu
Thiên của Văn Vương, gồm 8 quẻ: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn,
Ly, Khôn, Đoài, và Vòng Hoàng Đạo 2 của Tây Phương.
Văn
Vương cho rằng con người phải biến thiên theo hướng đi của mặt trời. Cuộc biến thiên bắt đầu từ quẻ Chấn, tức
là bắt đầu từ lúc sơ sinh, và kết thúc bằng quẻ
Cấn, tức là ngưng nghỉ nơi chí thiện. Vì
thế Thuyết Quái Truyện nói: Vạn vật xuất hồ Chấn... Cấn. Vạn vật
chi sở thành chung nhi sở thành thủy dã. Như
vậy, con người có khác nào 1 vì vương tử, cùng với mặt trời đi tuần
thú muôn phương, rồi lại trở về cung điện cũ.
Theo
vòng Hoàng Đạo, thì sự tiến hóa sẽ đi từ cung Bạch
Dương, và kết thúc bằng cung Song ngư. Ông
Sénard viết: Song ngư là cung thứ 12, và là cung sau chót
của vòng Hoàng đạo. Đó là Thiên đỉnh, tức là giao
điểm của cuộc sống phù sinh và đời sống hằng cửu (M. Sénard, Le
Zodiaque. p. 446).
Đó là
giai đoạn chót của đời sống huyền đồng. Delacroix viết: Tiểu
ngã bị hủy diệt... và được thay thế bằng 1 nhân cách mới, với một
lối cảm nghĩ và hành động mới... Tâm thần con người bị thay đổi,
ngã chấp khởi thủy bị tiêu diệt; thay vào đó thấy thể hiện một tâm
thức mới, quảng đại hơn; phàm cách được tan biến trong thiên thể. Thiên thể thay thế cho phàm thể cũ.
II. Thoán.
Thoán từ:
艮
. 艮 其 背 . 不 獲 其 身
. 行 其 庭 . 不 見 其
人
. 無 咎 .
Cấn. Cấn kỳ
bối. Bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình.
Bất kiến kỳ
nhân. Vô cữu.
Dịch.
Cấn là
dừng lại sau lưng,
Dừng nơi chí
thiện, quên thân, quên người.
Bản thân mà đã
quên rồi,
Trong sân đi
lại, quên người lỗi chi.
Trong
con người, mọi bộ phận đều động, duy cái lưng thường bất động. Động
thường hay làm ác. Tĩnh thì mới chí thiện; cho nên nói: Cấn kỳ
bối, là muốn nói: Chỉ ư chí thiện. Do lòng tư dục, con
người mới phân nhân, ngã. Dẹp được lòng tư dục rồi, thời chỉ
thấy thiên lý, thấy đạo lý, không còn phân nhân, ngã
nữa. Thế chính là Bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ
nhân vậy.
Thoán
Truyện:
彖 曰
.
艮 .
止 也 . 時 止 則 止
. 時 行 則 行 .
動 靜 不 失 其 時
. 其 道 光 明 . 艮
其
止 .
止 其 所 也 . 上 下 敵 應
. 不 相
與 也
. 是 以 不 獲 其 身 . 行 其
庭 不
見 其 人
. 無 咎 也 .
Cấn. Chỉ
dã. Thì chỉ tắc chỉ. Thì hành tắc hành. Động tĩnh bất thất kỳ thì. Kỳ đạo quang minh. Cấn kỳ chỉ. Chỉ kỳ sở dã. Thượng hạ địch ứng. Bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến
kỳ nhân. Vô cữu dã.
Dịch. Thoán rằng:
Cấn là ngừng
nghỉ, thôi đi,
Nghỉ khi nên
nghỉ, làm khi nên làm.
Tùy thời động
tĩnh, mới ngoan,
Thế thời đạo mới
huy quang, rạng ngời.
Cấn là dừng lại
nghỉ ngơi.
Dừng chân đứng
lại, đúng nơi mới tình.
Dưới, trên, ứng
đối phân minh,
Nhưng mà không
có tương tranh, tương thừa.
Thế nên, thân
cũng như sơ,
Mình, người, ta
vẫn hững hờ như không.
Thân mình coi
nhẹ lông hồng.
Ngoài sân đi
lại, chẳng trông thấy người.
Mình, người,
quên lãng cả đôi,
Thế nên mới được
êm xuôi, vẹn toàn.
Thoán giải thích: Cấn là ngưng lại.
Biết ngưng, khi đáng ngưng, biết hành động khi đáng hành động.
Động, Tĩnh không lỗi thời, như vậy mới là
sáng suốt. Khi chưa tới mức chí thiện, thời phải cố gắng tiến tới, và
chỉ ngưng nghỉ khi đã tới mức chí thành, chí thiện. Cấn là ngưng.
Ngưng đúng nơi, đúng chỗ, là lý tưởng nhất.
Như Văn
Vương, khi làm vua thời nhân; lúc làm bầy tôi thì kính, lúc làm cha
thời từ, lúc làm con thời hiếu, khi giao tiếp với người thì giữ tín
nghĩa (Xem Đại học, chương III ). Như vậy, quẻ Cấn dạy ta phải cố
sống một cuộc đời lý tưởng, xử sự sao cho lý tưởng, và chỉ ngưng nghỉ
khi đạt tới lý tưởng. Mà lý tưởng con người là phối Thiên,
là đạt Thiên đức, Thiên vị. Quẻ Cấn, quẻ trong, quẻ
ngoài đều giống nhau, các Hào đều không có ứng dữ, như vậy đã đạt thế
trung hòa. Thế là nhị thể giống in nhất thể, trong ngoài là một,
không còn phân biệt mình và người, không còn tương đối, tương đãi. Áp
dụng vào nơi con người, thời đó là tình trạng thuần nhất đại đồng, phổ
quát, nhĩ ngã bất phân.
Vì thế
Thoán viết: Thượng hạ địch ứng. Bất tương dữ dã. Thị dĩ
bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu dã.
II. Đại Tượng
Truyện.
象 曰
.
兼 山
. 艮 . 君 子 以 思 不 出 其 位
.
Tượng viết.
Kiêm sơn. Cấn. Quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.
Dịch.
Cấn là
núi mọc chập chùng,
Quântử cư vị,
chứ không ra ngoài.
Tượng Truyện dạy người quân tử không nên mua việc, chuốc lấy tần
phiền vào người. Ngược lại, phải lo sao cho đức xứng kỳ
vị, và bao giờ cũng cư xử đúng với nghĩa lý, với lý
tưởng, và hợp với hoàn cảnh mình đang sống. Như vậy lòng mới bình
thản, và mới có thì giờ, mới có khả năng suy tư và tu đạo.
Con
người phải luôn hành xử theo đúng nhân cách, phải dừng lại nơi thiên
chân, nơi lương năng, lương tri, nơi bản thể tuyệt đối. Lo gì, nghĩ
gì, cũng không nên ra ngoài vấn đề ấy. Con người phải luôn bảo
toàn Đạo tâm, Thiên tâm, Thiên tính.
Đừng có rời khỏi địa vị cao quí ấy, thế là biết nơi Chí thiện
để dừng chân lại (Phỏng theo Lưu nhất Minh, Chu Dịch
Xiển Chân).
III. Hào từ &
Tiểu Tượng Truyện
1.
Hào Sơ Lục.
初 六
.
艮 其 趾
. 無 咎 . 利 永 貞
.
象 曰
.
艮 其 趾
. 未 失 正 也 .
Sơ Lục.
Cấn kỳ chỉ. Vô cữu. Lợi vĩnh trinh.
Tượng viết:
Cấn kỳ chỉ. Vị
thất chính dã.
Dịch.
Ngón chân vừa đụng, đã ngừng,
Một lòng minh chính, chưa từng đơn sai,
Ai
người bắt bẻ, chê bai,
Luôn luôn minh chính, vậy thời lỗi chi.
Tượng rằng:
Ngón chân vừa
đụng, đã ngừng,
Một lòng minh chính, chưa từng đơn sai.
Hào Sơ Lục.
Vừa động ngón
chân đã biết ngưng (Cấn kỳ chỉ), tức như nói dục tình vừa máy
động, đã biết dừng lại, như vậy thời chẳng lỗi. Đây tức là trạng thái
một tâm hồn không xa lìa Thiên chân. Nhưng trạng thái
này cần được kéo dài, mới hay, mới lợi (Lợi vĩnh trinh). Tượng
giải rằng: Dừng nơi ngón chân là chưa mất sự chính đính vậy
(Cấn kỳ chỉ. Vị thất chính dã).
2.
Hào Lục nhị.
六 二
.
艮 其 腓
. 不 拯 其 隨 . 其 心 不 快
.
象 曰
.
不 拯 其 隨
. 未 退 聽 也 .
Lục nhị.
Cấn
kỳ phỉ. Bất chủng kỳ tùy. Kỳ tâm bất duyệt.
Tượng viết:
Bất chửng kỳ tùy. Vị thoái thính dã..
Dịch.
Ngừng mà
ngừng mỗi bắp chân,
Ngăn trên không
được, nên tâm còn phiền.
Tượng rằng:
Ngăn
trên không được, buồn sao,
Vì trên, đâu có
dễ nào chịu nghe.
Hào
Lục nhị. Cấn kỳ phỉ là ngưng nơi bắp chân, nghĩa là mình chỉ kiềm chế
được mình. Bất chửng nghĩa là mình chưa kiềm chế được người
trên. Kỳ tùy nghĩa là mình còn là kẻ tùy tòng, chưa
phải là cấp lãnh đạo, chỉ huy, vì thế nên Kỳ tâm bất duyệt, tức
là lòng chẳng sung sướng. Tượng Truyện bình rằng: Mình không
kiềm chế được người trên vì người trên đâu chịu nhượng bộ để nghe lời
mình (Bất chửng kỳ tùy. Vị thoái thính dã). Đức Khổng lúc
làm quan, tuy là đức độ, nhưng cũng không ngăn nổi Lỗ Định Công và
Quí Hoàn Tử mê đắm nữ sắc.
Mạnh Tử khi
thuyết lý với Tề Tuyên Vương, cũng phải tùy hứng của Tề tuyên Vương. Tề tuyên Vương nói: Ta có tật ưa của cải, Mạnh Tử cũng nhân đó mà nói:
Xưa ông Công Lưu cũng ưa của cải vv... Tề tuyên Vương nói: Ta có tật
ưa sắc đẹp, Mạnh tử cũng phải nhân đó mà nói: Xưa ông Thái Công cũng
hiếu sắc, ông yêu vợ mình vv...(Mạnh Tử Lương huệ Vương Hạ, 5 ). Rút cục, Mạnh Tử cũng không cảm hóa được Tề Tuyên Vương, và phải bỏ
nước Tề mà đi.
Khổng Tử
cũng gặp trường hợp tương tự . Ngài bỏ Lỗ sang Vệ, tưởng sẽ cảm hóa
được Vệ Linh Công. Nhưng thay vì hỏi ngài về đạo lý, Vệ Linh Công
lại hỏi ngài về trận mạc (LN. 15, 1). Rồi khi đức Khổng nói về đạo
lý, thì Vệ Linh Công lại lơ đãng, ngó lên trời xem nhạn bay. (Xem
Khổng tử thế gia, năm đức Khổng 59 tuổi).
3.
Hào Cửu tam.
九 三
.
艮 其 限
. 列 其 夤 . 厲 薰 心
.
象 曰
.
艮 其 限
. 危 薰 心 也 .
Cửu tam.
Cấn kỳ hạn. Liệt kỳ dần. Lệ huân tâm.
Tượng viết
:
Cấn kỳ hạn. Nguy huân tâm dã.
Dịch.
Ngừng mà ngừng chỗ ngang hông,
Ngang hông như đứt, nóng lòng, nóng gan.
Sự tĩnh
lãng tâm hồn phải đến một cách tự nhiên, chứ không phải một cách gượng
gạo, gò ép. Không phải ngồi thộn người ra (Cấn kỳ hạn.), mà
tâm hồn trở nên tĩnh lãng. Trái lại, những phương pháp tập luyện
quá đáng, chỉ làm hỏng xương sống, làm cháy tâm can. Thật là nguy
hiểm (Liệt kỳ dần. Lệ huân tâm). Hạn là ngang lưng, Liệt là
làm đứt, Dần là xương sống, Huân là thiêu đốt, Tâm là tâm can. Tượng
cũng bình rằng: Bức bách cơ thể để cho tâm hồn được tĩnh lãng, là việc
nguy hiểm, nó sẽ thiêu đốt tâm can (Cấn kỳ hạn. Nguy huân tâm
dã).
Hào này
làm ta liên tưởng đến những người luyện võ công không đúng phương
pháp, nên đã bị Tẩu hỏa nhập ma, hay những
người cố gắng dồn ép dục tình, nên đã sinh bệnh tật.
4.
Hào Lục tứ
.
六 四
.
艮 其 身
. 無 咎 .
象 曰
.
艮 其 身
. 止 諸 躬 也 .
Lục tứ.
Cấn kỳ thân. Vô cữu.
Tượng viết:
Cấn kỳ thân. Chỉ chư cung dã.
Dịch:
Ngừng mà ngừng được cái mình,
Thế thời lầm
lỗi, còn sinh đường nào.
Tượng rằng:
Ngừng được cái mình,
Tức là giữ được
tâm tình hẳn hoi.
Nơi trên
đầu quẻ, Thoán từ nói: Cấn kỳ bối. Bất hoạch kỳ thân.
Đó là giai đoạn vong thân, vong ngã. Hào lục tứ đây chưa đạt tới tình
trạng siêu việt ấy, vì hãy còn biết có Thân, có
Mình. Tuy nhiên, Lục tứ đã kiềm chế được mình, kiềm chế được
dục tình. Như vậy, cũng đã hay rồi (Cấn kỳ thân. vô cữu).
Tượng viết:
Cấn kỳ thân. Chỉ chư cung dã.
Tượng cho rằng:
Lục tứ đã kiềm chế được mình, đã điều khiển được mình.
5.
Hào Lục ngũ.
六 五
.
艮 其 輔
. 言 有 序 . 悔 亡
.
象 曰
.
艮 其 輔
. 以 中 正 也 .
Lục ngũ.
Cấn kỳ phụ. Ngôn hữu tự. Hối vong.
Tượng viết:
Cấn kỳ phụ. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Ngừng mà
ngừng được cái hàm,
Nói năng chừng
mực, phàn nàn, khỏi lo.
Tượng rằng:
Ngừng được cái
hàm,
Con đường trung
chính vẹn toàn, mới hay.
Lục ngũ
khuyên nên giữ mồm miệng (Cấn kỳ phụ). Khuyên nên ăn nói cho
đường hoàng, nghĩa lý (Ngôn hữu tự). Như vậy, mới tránh được
lỗi lầm (Hối vong).
Người
xưa, rất cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói. Khi đức Khổng vào thăm
miếu của tổ tiên nhà Châu là Hậu Tắc, Ngài thấy ở trước thềm bên phải,
có một người vàng, trên mình có khắc mấy lời đại khái như sau:
Đây là tượng một
người xưa.
Lời ăn, tiếng
nói, đắn đo, giữ gìn.
Gương xưa, ta
cũng nên xem,
Nói năng cẩn
trọng, hãy nên lo lường.
Rườm lời, sẽ lắm
nhiễu nhương.
Ôm đồm nhiều
việc, lòng thường xuyến xao.
Tượng
viết: Cấn kỳ phụ. Dĩ trung chính dã. Giữ được mồm
miệng, thế là đã theo được đường trung chính vậy.
6.
Hào Thượng Cửu.
上 九
.
敦 艮
. 吉 .
象 曰
.
敦 艮 之 吉
. 以 厚 終 也 .
Thượng Cửu.
Đôn Cấn. Cát.
Tượng viết:
Đôn
Cấn chi cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Ngừng mà
ngừng nghỉ đàng hoàng,
Thời hay, thời
tốt muôn vàn còn chi.
Tượng rằng:
Ngừng nghỉ đàng hoàng,
Cuối cùng, đầy
đặn, chững chàng mới hay.
Ngưng
nghỉ, mà ở chỗ đầy đặn, hẳn hoi mới tốt. Cấn là sự thành tựu của vạn
vật, dĩ nhiên là phải hay, phải tốt. Cho nên Hào Thượng Cửu của quẻ
Cấn cũng phải hay, phải đẹp.
Theo sự
nhận xét của Hồ văn Phong, Hào thượng Lục của quẻ Cấn, đem lại cho
chúng ta một nguồn hy vọng lớn lao: Là tới lúc chung cuộc lịch sử,
con người sẽ đạt tới hoàn mỹ, và sự biến thiên của vũ trụ cũng kết
thúc trong sự hoàn mỹ. Lúc ấy mọi người sẽ được thỏa thuê, mãn nguyện
(Bí, Tổn). Đạo trời sẽ phổ quát khắp nơi (Đại Súc).
Mọi người sẽ được phúc khánh (Di). Thật đúng như lời
Tượng Truyện: Lúc nào cũng đầy đặn, chững chàng (Đôn Cấn
chi cát. Dĩ hậu chung dã).
ÁP DỤNG QUẺ CẤN VÀO THỜI
ĐẠI
Quẻ Cấn dạy ta
phải biết dừng chân cho đúng lúc, tức là có ý muốn nói: Con người sinh
ra ở đời phải biết tiến hóa về mọi mặt. Chẳng những Tiến hóa
cho bản thân mình, mà còn tiến hóa để làm lợi ích cho
nhân quần xã hội nữa. Nhưng tới đúng lúc nào đó, thì phải ngưng.
A-Trước tiên,
vì ta là người, nên ta bị vật chất chi phối, nên ta phải tranh đấu để
có lợi danh. Từ nhỏ, còn ở học đường, ta đã phải chăm chỉ học
hành, để khỏi thua sút chúng bạn, để cho cha mẹ và thầy giáo được vui
lòng. Cha mẹ ta luôn ở cạnh ta, để giáo dục ta về mọi mặt, mong sao
cho ta nên người tốt và hữu dụng mai sau. Lớn lên, vì nhu cầu vật
chất gia tăng, rồi theo thiên nhiên, ta phải tạo dựng gia đình của
riêng ta, nên ta cần phải có tiền để chi dụng, do đó ta phải cố gắng
tranh đua để sao cho có danh và lợi. Nhưng điều quan trọng là:
Cách tạo ra danh, lợi đó phải cho minh chính, dù ở địạ vị, hoàn
cảnh nào cũng vậy. Một người thợ ngay thẳng, đáng kính trọng hơn một
ông quan tòa tham nhũng. Một người làm thương mại ngay thẳng,
thì dù nhỏ bé đến đâu, cũng có giá trị hơn một người đầu
cơ, tích trữ hoặc gian thương, làm hại dân, hại nước.
Trên
đường Lợi Danh, ta phải biết dừng chân đúng lúc. Ví dụ: khi thấy muốn thành công trong một công việc nào đó, mà phải
làm người khác thiệt hại, thì ta phải dừng ngay. Nếu ta là người biết
suy tư, thì ta sẽ nhận thấy: Cuộc đời là sân khấu, mà ta
là diễn viên. Lên sân khấu, mà không đóng nổi vai trò của
mình, thì quả thật là diễn viên dở vậy. Mỗi vai trò mình đóng,
đó là 1 kiếp luân hồi, nay nếu mình làm sai, hoặc quá đáng,
chắc chắn sẽ bị quả báo, không sớm thì muộn vậy. Ví dụ: Một người làm
con bất hiếu, làm sao mong sinh được con cái hiếu đễ. Một người
chuyên đi lừa đảo người khác, làm sao giữ được của ấy làm giầu, làm
sao tránh khỏi bị thiên hạ chê cười.
Tóm lại,
những công việc ta làm, những lợi danh ta có, không những hữu ích cho
cá nhân, gia đình ta, mà phải lợi ích cho nhân quần, xã hội nữa.
B-
Sau này,
khi tóc đã hoa râm, tức đã quá nửa cuộc đời, thì ta phải biết
tiếnhóa chính bản thân ta. Ta phải tiến về bản thể thần minh
của ta. Bản thể thần minh này, ai cũng có. Nếu ở nơi người quá tham vật dục, thì nó bị sẽ lu mờ.
Nhưng, nếu biết tỉnh ngộ, mà dừng chân lại kịp thời, rồi tu trì, ăn
năn, làm việc thiện, để bù đắp lại, may ra còn kịp. Để tâm suy tư, ta sẽ
nhận thấy đời sống hiện đại của ta đang tiến về phía thần minh. Ví dụ:
Nhờ sự tiếnhóa của khoa học,
ta có thể dùng điện thoại mà nói với ngưởi khác,
dù xa cách trùng dương, một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn là ta muốn
giao tiếp với thần minh. Một cuốn băng VIDEO nhỏ bé. cũng thâu được
hết sự việc của một triều đại, chiếu lên hình ảnh to nhỏ được như ý
muốn. Máy bay giúp con người vượt qua muôn dặm, v.v... Nhưng đồng
thời, khoa học đã chế tạo ra khí cụ chiến tranh
ghê gớm như bom nguyên tử, khinh khí, hơi ngạt, vi trùng, v.v...
như vậy còn tai hại hơn Trời giáng bệnh dịch xuống cho nhân loại. Tiếc rằng, Khoa Học tiến quá nhanh, mà Đạo đức lại thụt
lùi, tạo ra biết bao gia đình khổ não, dở khóc, dở cười.
Chúng
ta, là những người đọc Dịch, nếu để tâm suy tư thì sẽ hiểu Dịch dễ
dàng, và nếu tất cả mọi người, trong hành động nhiều ít đều có Dịch,
thì Đạo đức sẽ theo kịp Khoa Học vậy. Và theo
tôi, (tác giả viết bài này), NGÀY TẬN THẾ KHÔNG PHẢI LÀ
NGÀY NHÂN LOẠI BỊ TIÊU DIỆT, MÀ LÀ NHÂN LOẠI ĐÃ TIẾN HÓA VỀ MỌI
MẶT ĐỂ LÊN BẰNG THẦN MINH.
Sự tận thế đó,
theo tôi chỉ là ám chỉ con người của vật dục, xấu xa,
tội lỗi, ngu dốt, không còn duy trì, bành trướng được nữa, vì con
người của khôn ngoan, tài giỏi, đạo đức, đã dần dần lấn át, thay thế
nó. Khoa học tiến nhanh, là để đáp ứng nhu cầu cho con
người, vì con người sinh sản quá nhanh, nhưng
đến một lúc nào đó con người sẽ sinh sản có chừng mực, hoặc sinh sản
tùy theo ý mình muốn, và tuổi thọ sẽ tăng lên (vì khôn ngoan hơn, nên
biết giữ gìn hơn). Lúc ấy hạt giống Đạo Đức trong con người sẽ nẩy mầm
và phát triển nhanh chóng để theo kịp với Khoa Học.