HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53
54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
54.
雷 澤 歸 妹
Lôi
TRẠCH QUY MUỘI
Quy Muội Tự
Quái |
歸 妹 序 卦 |
Tiệm giả
tiến dã. |
漸 者 進 也 |
Tiến tất hữu
sở quy. |
進 必 有 所 歸 |
Cố thụ chi
dĩ Quy Muội. |
故 受 之 以 歸 妹 |
Quy Muội Tự Quái
Tiến là tiến
mãi, tiến lên.
Tiến nhưng có chốn, có miền hồi quy
Cho nên,
Quy Muội tiếp kỳ...
Quy muội là gả em
gái, hay cô gái về nhà chồng, mà không đủ lễ nghi cheo cưới. Quẻ
Quy
Muội này còn đề cập đến một tục lệ tối sơ của Trung Hoa xưa. Đó là
một người quí tộc, có thể lấy một lúc vừa vợ, vừa nàng hầu. Nàng hầu
có thể là em, hoặc cháu người vợ chính. Vì thế mà khi nhà giai hỏi vợ,
thì bên nhà gái, lúc con gái mình vu quy, phải cho ít nhất là người
con gái út theo chị, và một người cháu gái theo cô để phù dâu, và cũng
để làm hầu thiếp sau này.
Song song với
tục lệ này, còn có một tục lệ khác, là nhà vua có quyền lấy nhiều vợ
và phi tần hơn. Trong quẻ Quy Muội, ta sẽ chỉ lưu ý đến tục lệ
một người quí phái, vương tôn có thể lấy một lúc hai chị em và người
cháu.
I. Thoán.
Thoán từ.
歸 妹
. 征 凶 .
無 攸 利 .
Quy muội. Chinh
hung. Vô du lợi.
Dịch.
Quy muội,
gái nhỏ vu quy,
Lạ lùng, bỡ
ngỡ, làm gì cho đây.
Quẻ Quy
Muội, trên là Chấn, là trưởng nam, dưới là Đoài, là thiếu nữ. Như vậy
về đôi tuổi cũng chênh lệch, lại Đoài là duyệt, Chấn là động; lấy sự
thỏa thích làm động cơ cho công việc làm, thì vợ chồng sẽ đi đến chỗ
phóng túng dục tình, cho nên sẽ chẳng ra gì. Nhưng cũng có thể giải
cách khác là Phận em, phận lẽ, không nên chuyên quyền,
không nên tự quyết, mà nhất nhất phải tùy thuộc vào người vợ cả, chẳng
vậy sẽ không ra gì. Vì thế nói: Chinh hung. Vô du lợi.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰
.
歸 妹
. 天 地 之 大 義 也 . 天 地 不
交 .
而 萬 物
不 興
. 歸 妹 人 之 終 始 也 .
說 以 動
. 所 歸 妹 也 . 征 凶
. 位 不 當
也 .
無 攸 利 . 柔 乘 剛 也
.
Quy
Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất
hưng. Quy muội. Nhân chi chung thủy dã. Duyệt dĩ động. Sở
Quy muội
dã. Chinh hung. Vị bất đáng dã. Vô du lợi. Nhu thừa cương dã.
Dịch.
Cảm tình Quy Muội, gái trai
Âm Dương phối ngẫu, luật trời xưa nay,
Đất trời gàng quải, đó đây,
Thế thời vạn vật, biết ngày nào sinh.
Gái trai, Quy muội chi tình,
Ấy là đầu cuối, mối manh con người.
Vui nên hành động buông xuôi,
Thế nên, gái mới theo trai ra về,
Làm gì, cũng sẽ ê chề,
Là vì chẳng được xứng bề, xứng ngôi.
Trăm điều, chẳng tốt, chẳng xuôi.
Là vì Nhu lại cưỡi chòi lên Cương.
Thoán
Truyện đề cao sự phối ngẫu, và sánh cuộc hôn nhân giữa con người với
sự hòa hài của trời đất (Quy Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã.
Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng). Cho nên Hôn Lễ đối với
con người hết sức là quan trọng. Vì thế Thoán viết tiếp Quy Muội
nhân chi chung thủy dã.
Sách
Quốc ngữ cũng viết: Hôn nhân họa phúc chi giai
(Quốc ngữ, Chu Ngữ, đệ nhất). Hôn nhân là thềm, là bậc, là họa, phúc,
vào nhà một vương tôn công tử.
Chu Hi
giải quẻ Quy Muội, sở dĩ là chung thủy vì con người về nhà chồng là
hết đời con gái, và bắt đầu đời của người mẹ (Quy giả nữ chi
chung. Sinh dục giả nhân chi thủy). Chuyện vợ chồng dĩ
nhiên là quan trọng. Nhưng vợ chồng lấy nhau cốt để sinh con đẻ cái,
là cho giòng họ trở nên hùng tráng, vững bền, lại cũng cùng nhau tế tự
tổ tiên, chứ không phải là để phóng túng dục tình. Trong gia đình,
muốn ấm êm, phải có tôn ti, trật tự thì mọi sự mới êm đẹp.
Nếu mà
vợ lấn át chồng, vợ lẽ đòi hơn vợ cả, thì chẳng làm gì nên chuyện. Cho nên:
- Vợ
chồng phải tránh chuyện lấy thú vui làm hành động (Động dĩ duyệt. Sở Quy muội dã ).
- Ngôi
vị trong gia đình mà dang dở, sẽ sinh họa hoạn (Chinh hung. Vị bất
đáng dã).
-Tất cả những
chuyện lăng loàn, vượt quyền, vượt vị sẽ gây nên hậu quả không hay
(Vô du lợi. Nhu thừa cương dã).
II.
Tượng.
Tượng viết:
象
曰 .
澤 上 有 雷 . 歸 妹 .
君 子 以 永 終 知 敝 .
Trạch
thượng hữu lôi. Quy muội. Quân tử dĩ vĩnh chung chi tệ.
Dịch. Tượng rằng:
Quy muội sấm
động mặt hồ,
Nhìn xa để biết hay ho, hư hèn.
Nhìn xa, trông
rộng, mới nên.
Muốn
biết một việc hay, dở, phải nhìn cho xa. Ví như thấy sự phối hợp bất
chính, thì sẽ đoán được chung cuộc sẽ chẳng hay. Suy ra thì muôn sự
đều như vậy. Hễ không đường hoàng, chính đáng, cuối cùng sẽ sinh tệ
hại. Như vậy Tượng dạy ta, phải xét việc đời trên phương diện vĩnh
cửu, luôn luôn phải tự hỏi xem công việc mình làm có ích lợi cho mình
mãi không? hay cuối cùng sẽ có hại.
III. Hào Từ &
Tiểu Tượng Truyện
1.
Hào Sơ Cửu.
初 九
.
歸 妹 以 娣
. 跛 能 履 . 征 吉
.
象 曰
.
歸 妹 以 娣
. 以 恆 也 . 跛 能 履.
吉 .
相 承 也
.
Sơ Cửu.
Quy Muội dĩ đệ. Bả năng lý. Chinh cát.
Tượng viết:
Quy muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã. Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã.
Dịch.
Phận em,
phận lẽ vu quy,
Kiên trinh, hiền thục, vẹn bề trước sau.
Què mà đi được,
chẳng sao.
Biết điều, biết
xử, biết theo tốt lành.
Sơ Cửu
mô tả một người em cùng về nhà chồng với chị, để làm phận lẽ, nếu
không dám tự chuyên, biết khuôn xử hợp ý người vợ cả, thì mọi sự đều
hay, chẳng khác nào người thọt chân mà vẫn đi lại được.
Xưa,
thiên tử, chư hầu cưới vợ, thì lúc về nhà chồng, người vợ đích
(vợ cả) bao giờ cũng mang theo em, cháu về theo để làm hầu thiếp. Đó
là cái vinh dự cho người em.
Tượng
Truyện cho rằng: Về nhà chồng mà chị dẫn em theo là chuyện
thông thường, thông lệ (Quy Muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã). Người em
mà biết thuận thảo với người chị, thì cũng hay (Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã).
2.
Hào Cửu nhị.
九 二
.
眇 能 視
. 利 幽 人 之 貞 .
象 曰
.
利 幽 人 之 貞
. 未 變 常 也 .
Cửu nhị.
Diếu năng thị. Lợi u nhân chi trinh.
Tượng viết:
Lợi u nhân chi
trinh. Vị biến thường dã.
Dịch.
Chột mắt, mà vẫn trông nhìn.
Con người hiền đức, trinh bền, vẫn hay.
Tượng rằng:
Con người trinh
chính vẫn hay,
Đạo thường lẽ phải, chẳng hay, chẳng rời.
Cửu nhị
tượng trưng người vợ hiền. Lục ngũ tượng trưng người chồng dở. Vợ
hay mà chồng dở, cũng khó dựng được nghiệp lớn, như người một mắt chỉ
trông được gần, không tinh tường bằng người có đủ hai mắt (Diếu
năng thị). Gặp tình cảnh ấy, nếu biết im hơi lặng tiếng, một lòng
chung thủy với chồng là hay nhất (Lợi u nhân chi trinh). Hào
từ này cũng có thể giải thích là, người vợ cả hiền thục, nhưng không
được chồng yêu, mà lại đi yêu người vợ lẽ kém tài, kém đức hơn mình.
Tượng viết: Lợi u nhân chi trinh. Vị biến thường dã.
Những
người đàn bà hiền thục, thời dầu gặp hoàn cảnh nào cũng không thay
lòng, đổi dạ. Trinh liệt như vậy, nên mới đẹp đẽ.
3.
Hào Lục tam.
六 三
.
歸 妹 以 須
. 反 歸 以 娣 .
象 曰
.
歸 妹 以 須
. 未 當 也 .
Lục tam.
Quy Muội dĩ tu. phản quy dĩ đệ.
Tượng viết:
Quy muội dĩ tu. Vị đáng dã.
Dịch.
Vu quy, có lúc nên chờ,
Không chờ, lấy lẽ mới ra thân hèn.
Tượng rằng:
Vu
quy có lúc nên chờ,
Dở dang, nên
hãy đắn đo chờ thời.
Hào Lục
tam, Âm nhu, bất trung, bất chính, không khéo xử, không biết chờ thời
(Quy muội dĩ tu), nên không được làm vợ chính, mà phải cam phận
làm vợ lẽ, nàng hầu (Phản quy dĩ đệ). Tu đây được hiểu
là chờ đợi.
Kiến An Khâu thị giải đại khái rằng: Lục tam vốn hèn hơn Cửu
nhị, mà lại ngạo nghễ muốn trèo đèo, đòi lấn át Cửu nhị, tức là người
vợ cả, như vậy ắt sẽ bị ruồng rẫy, cứ nên cam phận lẽ mọn của mình thì
hơn. Tu
đây được hiểu là người con gái ti tiện.
Tượng viết:
Quy muội dĩ tu.
Vị đáng dã.
Tượng Truyện cho
rằng tất cả những chuyện éo le, dang dở của Lục tam, đều là do sự cư
xử không thích đáng mà ra. Nên Kiến An Khâu thị cho rằng: Hào Sơ
dưới, biết phận hầu thiếp của mình, ở ăn phải đạo, thế là cư xử đúng
vị. Hào tam, Nhu mà đòi lướt Cương, Tiện mà đòi vượt Quí, thế là cư
xử không chính đáng.
4.
Hào Cửu tứ.
九 四
.
歸 妹 愆 期
. 遲 歸 有 時 .
象 曰
.
愆 期 之 志
. 有 待 而 行 也 .
Cửu tứ.
Quy muội khiên kỳ. Trì quy hữu thì.
Tượng viết:
Khiên kỳ chi
chí. Hữu đãi nhi hành dã.
Dịch.
Vu quy, phải hoãn, phải chờ,
Từ từ, cho hợp thời cơ mới là.
Tượng rằng:
Có gan, khoan dãn
đợi chờ,
Đợi chờ, cho gặp thời cơ mới làm.
Cửu tứ
là người con gái hiền đức, biết tự trọng, nhưng vì không có chính ứng,
nên nói rằng Khiên kỳ (Chậm về nhà chồng). Quy muội khiên
kỳ. Nhưng nếu mình biết chờ đợi, rồi ra cũng lấy được chồng hay,
chậm về nhà chồng, nhưng rồi cũng về nhà chồng (Trì quy hữu thì).
Tượng
Truyện cho rằng: Cửu tứ chậm đi lấy chồng, không phải vì ế chồng, mà
là có ý kén chồng tốt mới chịu lấy (Khiên kỳ chi chí. Hữu đãi nhi
hành dã). Thế là:
Lộc còn ẩn bóng cây tùng .
Thuyền quyên đợi
bóng anh hùng vãng lai.
5.
Hào Lục ngũ.
六 五
.
帝 乙 歸 妹
. 其 君 之 袂 . 不 如 其 娣 之 袂
良 . 月 几 望 . 吉
.
象 曰
.
帝 乙 歸 妹
. 不 如 其 娣 之 袂 良 也 . 其
位 在 中 . 以 貴 行 也 .
Lục ngũ.
Đế Ất quy muội. Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ đệ chi duệ lương.
Nguyệt cơ vọng. Cát.
Tượng viết:
Đế Ất quy muội.
Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã.
Kỳ vị tại
trung. Dĩ quí hành dã.
Dịch.
Kìa vua Đế Ất gả em,
Nàng dâu, tay áo trông xem kém người,
Kém người lẽ mọn, tôi đòi.
Tôi đòi, lẽ mọn, trông ngoài sang hơn.
Vầng trăng xấp xỉ chưa tròn,
Vừa cao, vừa quí, vừa ngoan, vừa lành.
Tượng rằng: Đế Ất gả em,
Xuềnh xoàng áo xống, trông xem kém người.
Kém người phù tá, tôi đòi,
Xuềnh xoàng, dản dị, thế thời mới hay.
Vị cao, mà đức lại dày,
Trinh trung, nhu thuận ra người cao sang.
Lục ngũ
bàn về chuyện vua Đế Ất gả em gái là Thái Tự cho vua Văn Vương. Đế Ất
là vua giáp chót nhà Ân, trước vua Trụ. Đế Ất trị vì từ 1191 đến 1155
trước Công nguyên. Theo Trình Tử thì vua Đế Ất đã ra sắc chỉ quy định
rằng công chúa mà lấy chồng, cũng phải vâng phục quyền chồng. Nàng
dâu ở đây rất đức hạnh, không ưa trang điểm, nên phục sức có vẻ thua
sút các nàng dâu đi theo phù dâu (Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ
đệ chi duệ lương). Quân đây là nàng dâu, là vợ cả. Xưa vợ cả được
gọi là Nữ quân hay Quân mẫu. Nàng lại khiêm cung, không dám lấn át
chồng. Như vậy mới là ngoan (Nguyệt cơ vọng cát).
Tượng
Truyện khen nàng dâu nhã nhặn, không ưa phục sức lộng lẫy, và cho rằng
sở dĩ được vậy là vì địa vị đã cao, xử xự lại đúng mức, hành vi lại
thanh quí (Đế Ất quy muội. Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã. Kỳ vị
tại trung. Dĩ quí hành dã).
6.
Hào Thượng Lục.
上 六
.
女 承 筐 無 實
. 士 囗 羊 無 血 . 無 攸 利
.
象 曰
.
上 六 無 實
. 承 虛 筐 也 .
Thượng Lục.
Nữ thừa khuông vô thực. Sĩ khuê dương vô
huyết. Vô du lợi.
Tượng viết:
Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã.
Dịch.
Gái bưng
một cái giỏ không,
Giai đem dê
giết, máu hồng chẳng rơi.
Việc gì, cũng
chẳng có lơi,
Việc gì cũng sẽ
lôi thôi, chẳng toàn.
Tượng rằng:
Thượng Lục rỗng lòng,
Thế là bưng cái
giỏ không có đồ.
Xưa
người vợ hiền, phải cộng tác với chồng để đồng tế lễ tiên tổ. Đó là
một công chuyện hết sức hệ trọng, không thể làm hời hợt được. Những
bà vợ không làm tròn bổn phận tế lễ tiên tổ, có thể bị chồng trả về
cha mẹ vợ. (Xem Li Ki, Couvreur II, 197 ).
Hào
Thượng Lục đây đề cập đến trường hợp cả hai vợ chồng đều lỗi bổn phận
trong khi tế lễ. Vợ thì dâng giỏ không (Nữ thừa khuông vô thực),
chồng thì chọc tiết dê không ra máu, (Sĩ khuê dương vô huyết).
Như vậy là cặp vợ chồng hỏng (Vô du lợi), không ăn đời, ở
kiếp với nhau được, cho nên thay vì dùng chữ Phu Phụ, Hào từ dùng chữ
Sĩ, Nữ. Người vợ mà không làm tròn phận sự tế lễ, dâng giỏ không,
thời chắc chẳng phải là một người có thể cùng chồng tính kế bách niên,
giai lão (Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã). Quẻ
Quy
Muội đã làm sống lại cả một dĩ vãng xa xăm, với những phong tục đặc
biệt, mà nay khảo sát đến, ta không khỏi bỡ ngỡ một cách thích thú.
ÁP DỤNG QUẺ QUI MUỘI VÀO
THỜI ĐẠI
Chế độ đa thê
trong quẻ Quy Muội đã quá lỗi thời, không phù hợp hiện tại. Ngày nay
ta ở trong chế độ Một vợ, một chồng. Nhưng sự lo lắng về hôn
nhân cho con cái, thì quẻ Quy muội cũng khiến ta nên suy nghĩ, để rút
tỉa những cái khôn ngoan của người xưa, mà áp dụng dung hòa cho ngày
nay. Xưa, con gái mới 12, 13 tuổi, cha mẹ đã lo dựng vợ, gả chồng,
con cái có yên bề gia thất, thì cha mẹ mới coi như đã làm tròn bổn
phận. Nhưng ngày nay, tiêm nhiễm theo văn minh Âu Mỹ, những thanh
thiếu niên ý thức được những cái hay của nước người là làm việc chuyên
cần, chịu khó, thì đều thành công trong xã hội, còn những người chỉ
trông thấy sự tự do của họ thì bắt chước theo, nhưng đã đi quá trớn
như:
-
Tự do hôn nhân. Thay vì được lựa chọn người yêu như ý mình, thì họ
yêu đương bừa bãi, không cân nhắc, không suy nghĩ; thậm chí bất chấp
lời khuyên can của cha mẹ, của các bậc bề trên, nhiều khi còn cho ra
đời những đứa con không cha, và chính bản thân mình không có ai muốn
cưới hỏi đàng hoàng. Vậy thử hỏi các bậc cha mẹ, có ai thoát khỏi nỗi
đau lòng, khi trông thấy con cái mình như vậy? Quẻ Quy Muội giúp ta
suy nghĩ và cân nhắc về sự suy tính của trí tuệ người xưa, và biến đổi
nó lại, để áp dụng cho thời đại ngày nay. Trong bài này, ta chỉ đề
cập đến vấn đề hôn nhân, và giáo dục con cái mà thôi..
Khi xưa,
ở Trung Hoa, nhà có nhiều con gái, cháu gái, sợ có nhiều người bị ế
chồng, và khi đi lấy chồng là coi như phải xa nhà, mỗi khi muốn về
thăm cha mẹ cũng khó khăn, phải được bố mẹ chồng hoặc chồng cho phép. Nếu gặp gia đình nhà chồng khắt khe, thì người nàng dâu đó rất cô đơn
và khổ sở, nên xã hội phải đặt ra tục lệ như quẻ Quy Muội tả trên, cho
em gái hoặc cháu gái cùng về nhà chồng, để làm hầu thiếp, để đỡ đần
công việc, và chia xẻ ngọt bùi, cho cô dâu bớt cô đơn. Nhưng đồng
thời, bậc cha mẹ cũng phải huấn luyện con gái mình, thành người hiền
thục, khoan hồng, đại lượng, và các cô hầu thiếp đi theo cũng phải
phục tùng, và thuận thảo, nếu ai làm trái ngược thì coi như mang tai
họa đến cho nhà chồng. Do đó nhờ có sự giáo dục cẩn thận của cha mẹ,
nên trên dưới một lòng.
Áp
dụng vào ngày nay,
thì cha mẹ nên để ý giáo dục con ngay từ lúc còn nhỏ, lo để ý tìm bạn
cho con giao thiệp, trong đám con cháu của bè bạn mình, như vậy là
mình phải dành chút thì giờ cuối tuần để lo giao thiệp, để dạy con làm
công việc nội trợ, để đưa con đi chơi, để cho chúng thấy mình được cha
mẹ thương yêu, lo lắng cho, chớ để cho con cái thấy mình bị cô đơn,
không ai ngó ngàng tới, cả ngay bố mẹ chúng chỉ tối ngày lo làm tiền,
mà không để ý gì đến chúng. Sự thật tiền thì ai cũng cần, nhưng con
cái mình còn quan trọng hơn tiền. Như vậy con cái đã có tình yêu của
cha mẹ đầy đủ, đã có bè bạn tốt, có giáo dục đầy đủ, thì sự sa đoạ
cũng bớt đi nhiều, và như vậy việc Hôn nhân của chúng cũng làm
ta bớt mệt óc, vì chúng có nhiều đối tượng tốt để so sánh, do đó cũng
khó sa ngã. Và Tự Do Hôn Nhân là tự do lựa chọn, với sự
hướng dẫn của các bậc phụ huynh, như vậy cũng làm cho ta
yên trí và tin tưởng được phần nào.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53
54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|