HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
31.
澤
山
咸
TRẠCH SƠN HÀM
Hàm Tự Quái |
咸 序 卦
|
Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật.
|
有 天 地, 然 後 有 萬 物 |
Hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ.
|
有 萬 物, 然 後 有 男 女 |
Hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ.
|
有 男 女, 然 後 有
夫 婦 |
Hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử.
|
有 夫 婦, 然 後 有 父 子 |
Hữu phụ tử, nhiên hậu hữu quân thần.
|
有 父 子, 然 後 有 君 臣 |
Hữu quân thần, nhiên hậu hữu thượng
hạ.
|
有 君 臣, 然 後 有 上 下 |
Hữu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu
sở thố. |
有 上 下, .然 後 禮
儀 有 所 錯 |
Hàm Tự Quái
Thoạt tiên có Đất có Trời
Rồi ra vạn vật vạn loài mới sinh.
Loài sinh, nam nữ phân trình,
Có nam, có nữ, sẽ sinh vợ chồng.
Vợ chồng nối kết giải đồng,
Vợ chồng, nên mới có giòng cha con.
Quân thần, do đó, tiếp luôn,
Rồi ra trên dưới, kém hơn, phân trình.
Dưới, trên, lễ nghĩa sẽ sinh,
Tôn ti, đẳng cấp mới thành lễ nghi.
Dịch Kinh rất trọng Âm Dương. Đầu Thượng
Kinh để hai quẻ Kiền Khôn. Đầu Hạ Kinh để hai quẻ Hàm Hằng.
- Kiền Khôn ở Thượng Kinh còn tách rời
nhau để định vị (Kiền Khôn định vị).
Nhưng ở Hạ Kinh, Sơn (Dương), Trạch (Âm)
hòa hợp nhau (Sơn trạch thông khí) để thành quẻ Hàm; Phong (Âm) Lôi
(Dương) tăng cường lẫn nhau (Phong lôi tương thác) để thành quẻ Hằng.
- Ở Thượng Kinh, Kiền Khôn là khí
hóa chi thủy (khí trời đất bắt đầu biến hóa) thời Thoán Truyện
quẻ Kiền lại có 4 chữ Phẩm vật lưu hình.
- Ở Hạ Kinh, Hàm là hình hóa chi
thủy (hình hài bắt đầu biến hóa) thời lại có 4 chữ nhị khí
cảm ứng. Ý muốn nói Hình và Khí không hề lìa nhau:
Thoán Truyện quẻ Kiền đề cập đến chữ
Tính; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến chữ Tình;
Thoán Truyện quẻ Phục nói đến Thiên địa chi tâm; Thoán
Truyện quẻ Hàm nói đến Nhân tâm. Thế là tính tình không hề
xa nhau, Trời người chẳng hề xa nhau, hình khí chẳng hề xa nhau, Âm
Dương chẳng hề xa nhau.
Ngoài trời đất, Âm Dương có hòa
hài, thì vạn vật mới sinh. Trong nhân quần, Âm Dương có hòa hài
thì nhân luân mới có cơ bền vững, xã hội mới có cơ thanh bình.
Ngoài vũ trụ, Âm Dương là đất trời,
trong nhân quần, Âm Dương là nam nữ. Vũ trụ là một từ trường bao
la, nhân quần là một từ trường rộng lớn. Vạn vật hấp dẫn, cảm ứng nhau
không ngừng, nên mới có được ngày nay.
Hàm có hai nghĩa: 1. Là cảm ứng. 2. Là phổ
quát.
Cảm ứng phải bằng tâm tình, vì thế
chữ Hàm 咸 thêm chữ Tâm 心 là chữ Cảm 感. Cảm ứng bằng tư tình thì không
phổ quát, muốn phổ quát phải hư tâm, phải rũ bỏ tư tình, nên chữ Cảm 感
bỏ chữ Tâm 心 đi thành chữ Hàm 咸.
Quẻ Hàm trên là quẻ Đoài ☱, dưới là quẻ
Cấn ☶. Đoài là vui thích; Cấn là vững vàng, là thành thực, là thành
khẩn.
Đem lòng thành khẩn, thành thực mà cảm
người, người sẽ vui lòng đáp ứng. Ta và người cảm ứng lẫn nhau, hòa
thuận với nhau thì việc gì cũng thông suốt.
I. Thoán.
Thoán Từ.
咸 . 亨,利 貞,取 女 吉。
Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Dịch.
Lẽ trời cảm ứng mới hay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Muốn cảm ứng với nhau cho hay, cho lợi,
phải dựa trên nền tảng đạo lý, công chính. Vì thế Thoán Từ nói Hàm
hanh. Lợi trinh. Trai gái yêu nhau, thương nhau mà lấy nhau, rồi ra
cuộc sống sẽ đẹp đẽ; Thoán Từ tiếp: Thủ nữ cát.
Thoán truyện. Thoán viết:
彖 曰:咸,感 也 . 柔 上 而 剛 下,二 氣 感 應 以 相 與,止 而 說,男 下 女,是 以 亨 利 貞,取 女 吉 也 . 天 地 感 而 萬 物 化 生,聖 人 感 人 心 而 天 下 和 平
. 觀 其 所 感,而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Hàm. Cảm dã. Nhu thượng nhi cương hạ.
Nhị khí cảm ứng dĩ tương dự. Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh lợi
trinh. Thủ nữ cát dã. Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm
nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình. Quan kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật
chi tình khả kiến hĩ.
Dịch. Thoán viết:
Hàm là cảm ứng lẽ thường,
Mềm trên, cứng dưới, đôi đường cảm
nhau.
Âm Dương nhị khí tương cầu,
Chân thành vui thỏa, trước sau mới là.
Trai tơ nhượng bộ gái tơ,
Nam cầu, nữ ứng, bây giờ mới hay.
Cảm cầu hợp lẽ chính ngay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Đất trời rung cảm hoà hài,
Cho nên vạn vật muôn loài hoá sinh.
Thánh nhân cảm hóa sinh linh,
Làm cho thiên hạ hòa bình âu ca.
Xem chiều cảm ứng hiệp hòa,
Đất trời, muôn vật, tìm ra ý tình.
Thoán Truyện định nghĩa chữ Hàm là cảm
ứng. Muốn cảm ứng, Âm nhu phải ở trên, Dương cương phải ở dưới:
Dương cảm Âm ứng, Dương xướng Âm hòa, nhị khí tương giao, thời Âm Dương
mới hòa hợp. Vì thế Thoán Truyện mới nói: Nhu thượng (Đoài là Âm nhu)
nhi cương hạ (Cấn là Dương cương); nhị khí tương ứng dĩ tương dự.
Áp dụng vào nhân quần, ta thấy định
luật cảm ứng của đất trời cũng hoạt động mạnh mẽ. Trai gái tự nhiên
hấp dẫn nhau, mà sự hấp dẫn mạnh nhất, sự cảm ứng mạnh nhất là ở nơi
thiếu nam và thiếu nữ. Có cảm ứng, có thương yêu mới tính chuyện vợ
chồng sau này. Nếu người con trai mà thành khẩn thương yêu, người con
gái sẽ cảm động, sẽ vui vẻ mà đáp ứng. Vả trâu đi tìm cọc, chứ cọc không
đi tìm trâu, nên trong bước đầu cuộc tình ái, người con trai phải đi
bước trước, phải ngỏ lời trước, phải tỏ tình trước, như vậy mới đẹp đẽ.
Thoán Truyện viết:
Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh.
Tuy nhiên tình duyên, hay cảm ứng cũng đặt trên nền tảng đạo lý, sự
minh chính, mới tốt, mới lợi. Xưa nay những tuồng trên bộc trong dâu khó
đem lại một kết cuộc đẹp đẽ. Lấy nhau phải vì thương yêu nhau, phải có
chính nghĩa, chính đạo, muốn gây dựng cho nhau một đời sống đẹp đẽ, hạnh
phúc, thì cuộc hôn nhân mới tốt đẹp. Vì thế Thoán Truyện nói tiếp:
Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Sau đó Thoán Truyện bàn đến tầm quan trọng
của sự cảm ứng, của sự hòa hài trong vũ trụ, cũng như trong nhân quần.
Vạn vật cũng như con người không thể sống riêng rẽ.
Vì thế người xưa mới nói: Cô Âm tắc
bất sinh, cô Dương tắc bất trưởng, cố thiên địa phối dĩ Âm Dương. Nam dĩ
nữ vi thất, nữ dĩ nam vi gia; cố nhân sinh ngẫu dĩ phu phụ. Âm Dương hòa
nhi hậu vũ trạch giáng; phu phụ hòa nhi hậu gia đạo thành. Tạm
dịch:
Cô Âm không thể sản sinh,
Cô Dương không thể hoa vinh, xương
phồn.
Cho nên trời đất đôi đàng,
Hòa hài chẳng có quải gàng khi nao
Trai thì tìm gái tất giao,
Gái mong chắp mối tơ đào cùng trai.
Cho nên từ có loài người,
Gái trai phối ngẫu nên đôi vợ chồng.
Âm Dương trời đất hòa đồng,
Rồi ra vũ trạch non sông ơn nhờ.
Vợ chồng chắp nối duyên tơ,
Rồi ra, gia đạo có cơ vững vàng.
Dịch Kinh cho rằng nhờ có khí trời, khí
đất hòa hài, nên vạn vật mới có thể hóa sinh, trưởng dưỡng; nhờ ảnh
hưởng Thánh nhân cảm hóa tâm hồn con người, nên nhân loại
mới được hòa bình thái thịnh. (Thiên
địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà
bình). Nói cách khác, đất trời
không hòa hài, xã hội sẽ tan vỡ.
Thoán còn cho rằng: Cứ xem vạn vật cảm ưng
ra sao, sẽ thấy tâm địa, ý tình của chúng (Quan
kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.)
Lẽ trời là: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Người ưa vật chất sẽ rung cảm dễ dàng vì những vấn đề tinh thần. Cho nên
nhìn xem muôn loài ưa thích những gì, rung cảm trước những loại giá trị
gì, sẽ xác định được căn cơ của chúng, và thấy được bộ mặt thực của
chúng.
Tóm lại Hàm là hòa hài, cảm ứng, để đi đến
chỗ phổ quát đại đồng. Hàm là hòa hài cảm ứng; mà cảm ứng
là một định luật phổ quát của vũ trụ. Trời đất cảm ứng, Âm Dương cảm
ứng, Trai gái cảm ứng, dưới trên cảm ứng. Do đó thánh nhân có thể cảm
hóa nhân tâm để đem an ninh lại cho thiên hạ.
Hàm là cảm ứng; nên Hào sơ ứng với Hào tứ;
Hào nhị ứng với Hào ngũ; Hào tam ứng với Hào lục, nhất nhất đều là Dương
cảm, Âm ứng. Cảm ứng hòa điệu sẽ đem hạnh phúc, ấm êm, thanh bình cho
trần thế.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰:山 上 有 澤 . 咸 . 君 子 以 虛 受 人 .
Tượng viết:
Sơn thượng hữu
trạch. Hàm. Quân tử dĩ hư thụ nhân.
Dịch. Tượng rằng
Hồ trên đỉnh núi là Hàm,
Hiền nhân mở rộng tâm xoang đón người.
Hư tâm đối xử với đời.
(Hư tâm nên mới thảnh thơi hòa đồng.)
Đỉnh núi có rỗng, có trũng thì mới chứa
được nước, mới có được hồ nước ở trên. Người quân tử phải trống lòng,
mới cảm thông được với mọi người.
Trình Tử cho rằng Hư ở đây là Vô tư, Vô
ngã. Có Vô tư, Vô ngã mới hàm chứa được vô biên; bằng như lòng đã có
thiên kiến, tư tình, sẽ trở nên hẹp lượng.
III. Hào từ & Tiểu
Tượng Truyện
Các Hào đều bàn về lẽ cảm ứng, bàn về các
cung cách ảnh hưởng tới tha nhân, có nông, có sâu, có mạnh, có yếu; có
lúc hợp thời, có lúc không hợp thời; có khi bao quát, có khi bị giới
hạn; mình có thể ảnh hưởng đến người khác bằng tâm thần, hoặc bằng môi
miệng.
1. Hào Sơ Lục.
初 六:咸 其 拇 .
象 曰:咸 其 拇,志 在 外 也 .
Sơ Lục. Hàm kỳ mẫu.
Tượng viết:
Hàm kỳ mẫu. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Sơ Lục. Cảm ngón cái chân,
Tượng rằng: Cảm ngón cái chân,
Nghĩa là đã có để tâm tới ngoài.
Hào Sơ: Muốn ảnh hưởng đến người,
cần phải có nội công, nội lực dồi dào; cần phải làm chi cũ thể để gây
ảnh hưởng đối với người. Vì vậy Hào Sơ cho rằng: mới có ý muốn gây ảnh
hưởng đối với người mà chưa làm được việc gì cụ thể bên ngoài, thì chưa
gây được ảnh hưởng bao lăm. Như ngón chân cái mấp máy, thời làm sao di
chuyển được cái chân.
Tóm lại, Hào Sơ cho rằng: Ảnh hưởng lúc
này còn quá yếu, chưa có tác dụng nào đáng kể.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 咸 其 腓,凶,居 吉 .
象 曰: 雖 凶,居 吉,順 不 害 也 .
Lục nhị. Hàm kỳ
phì. Hung. cư cát.
Tượng viết:
Tuy hung. Cư cát. Thuận bất hại dã.
Dịch.
Bắp chân cảm động xấu thay,
Ở yên, rồi mới được hay, được lành.
Tượng rằng: Tuy vội chẳng hay,
Ở yên sẽ thuận luật trời, hại chi.
Hào Hai
cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng nhất là đối
với người trên, phải có thời cơ. Khi người trên chưa vời mình, mà mình
cầu cạnh để gây ảnh hưởng, để tác động họ, là làm một công chuyện chẳng
hay. Cần phải biết ở yên, chờ khi người trên có lời cầu mình đã; lúc ấy
lời lẽ, hành động mình mới có thể có ảnh hưởng lớn đối với họ.
3. Hào Cửu tam.
九 三: 咸 其 股,執 其 隨,往
吝.
象 曰: 咸 其 股,亦 不 處 也
. 志 在 隨 人,所 執 下 也 .
Cửu tam. Hàm kỳ cổ.
Chấp kỳ tuỳ. Vãng lận.
Tượng viết.
Hàm kỳ cổ. Diệc bất
xử dã. Chí tại tuỳ nhân. Sở chấp hạ dã.
Dịch.
Cửu tam cảm vế, cảm đùi,
Theo người hành sự, tiếc thôi có ngày.
Tượng rằng: Cảm ở vế đùi,
Cũng chưa giữ được vẻ người thanh cao.
Theo người hành sự lao nhao,
Đi theo hạ cấp, tránh sao tiếng hèn.
Hào Ba bàn tiếp thêm rằng: Muốn gây
ảnh hưởng, muốn cảm hóa người khác, trước tiên mình phải là người có
nhân cách, biết tự trọng.
Nhược bằng mình chạy theo thị hiếu, thị
dục của tha nhân, để thỏa mãn họ, hoặc mình để cho ngoại cảnh, ngoại
nhân, dục vọng sai sử, như vậy chẳng hóa ra hèn hạ lắm sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四: 貞 吉 悔 亡,憧 憧 往 來,朋 從
爾 思 .
象 曰: 貞 吉 悔 亡,未 感 害 也 . 憧
憧 往 來,未 光 大 也 .
Cửu tứ. Trinh cát
hối vong. Đồng đồng vãng lai. Bằng tòng nhĩ tư.
Tượng viết.
Trinh cát hối vong.
Vị cảm hại dã. Đồng đồng vãng lai. Vị quang đại dã.
Dịch.
Cảm người một cách tự nhiên,
Mới hay, mới tốt, hết niềm ăn năn.
Còn như cuống quít, lăng xăng,
Bạn bè cảm ứng, công năng chưa đầy.
Tượng rằng:
Quang minh, khinh khoát một lòng,
Mới hay, mới tốt, mới không phàn nàn.
Đó là cảm ứng đàng hoàng,
Tình riêng chưa có quải gàng lẽ công.
Còn như cuống quít long tong
Bạn bè cảm ứng, đừng hòng quang minh.
Hào cửu tứ là chủ Hào.
Ba hào dưới đều mượn những phần thân thể ở nơi chân.
- Hào Sơ nói cảm ở ngón chân cái.
- Hào Nhị nói cảm ở bắp chân.
- Hào Tam nói cảm ở vế đùi.
Duy Hào Tứ này nói cảm bằng tâm hồn.
Thực ra Hào Tứ không dùng chữ Tâm một cách rõ rệt, nhưng trong
Hào tứ có chữ Tư, trong Tiểu Tượng có chữ Cảm, cả hai đều
có bộ Tâm. Hào Tứ cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng cho sâu rộng, muốn cảm
hóa được mọi người cho sâu rộng, phải theo chính lý, chính đạo, phải gạt
bỏ tư tâm. Vì thế Hào Tứ nói: Trinh cát hối vong.
Trình Tử giải chữ Trinh đây là: Trinh
chính; Trung Khê Trương thị giải là: Theo lẽ thiên nhiên,
trinh nhất chưa phôi pha tư cảm, tư dục, thời mới hay mới tốt.
Còn khi mà đã Đồng đồng vãng lai, tư lự, suy tính, cầu cạnh; lo
lấy lòng người này, lo o bế người kia thì cái sức cảm ứng của mình nó
giảm đi nhiều. Chỉ có một số bạn bè của mình sẽ hưởng ứng mà thôi. Vì
thế mới nói: Bằng tòng nhĩ tư. Phàm chưng, làm việc gì mà cứ để
cho lòng khinh khoát hồn nhiên không cầu cạnh, thì ảnh hưởng mới mạnh.
Càng mở rộng lòng, ảnh hưởng càng mạnh; trời đất đã theo đường lối ấy,
vì trời đất chính là vô tâm, không hề tây vị riêng tư ai. (Xem Hệ Từ hạ
- chương 5.)
5. Hào Cửu ngũ.
九 五: 咸 其 脢,無 悔 .
象 曰: 咸 其 脢,志 末 也 .
Cửu ngũ. Hàm kỳ
mỗi. Vô hối.
Tượng viết.
Hàm kỳ mỗi. Chí mạt
dã.
Dịch.
Cảm mà ở gáy ở vai,
Tuy không thấm thía, thoát bài ăn năn.
Tượng rằng: Cảm ở gáy vai,
Nghĩa là cảm vật, hợt hời chẳng sâu.
Hào năm, Trình Tử giải rằng: Mỗi là
thịt lưng, ở sau tâm, mà chẳng thấy tâm. Nghĩa là nếu quên được tư tâm,
không cứ rằng nhìn thấy mới thích, thì sẽ đi đúng được lối chính đáng
của bậc nhân quân, vì vậy không có gì đáng trách. Tống bản Thập Tam Kinh
đại khái giải rằng: Mỗi ở trên tim và dưới miệng. Cảm ứng bằng tâm
thần dĩ nhiên là sâu xa nhất, cảm ứng bằng gáy vai, dĩ nhiên là nông cạn
hơn, cảm ứng bằng môi miệng lại càng hời hợt hơn nữa. Như vậy
cảm ứng bằng gáy vai, ám chỉ một sự cảm ứng nông cạn, hẹp hòi, tuy không
đáng trách, nhưng tỏ ra đương sự không phải là người có khí phách bao
lăm. (Chí mạt dã)
6. Hào Thượng lục.
上 六: 咸 其 輔,頰 舌 .
象 曰: 咸 其 輔,頰 舌,滕 口
說 也 .
Thượng lục. Hàm
kỳ phụ. Giáp thiệt.
Tượng viết.
Hàm kỳ phụ. Giáp
thiệt. Đằng khẩu thuyết dã.
Dịch.
Cảm bằng miệng lưỡi mép môi
Tượng rằng: Cảm bằng miệng lưỡi
mép môi
Ấy là khua múa, chuốt lời cho hay.
Thượng lục đề cập đến cách cảm hóa
con người bằng miệng lưỡi; đó là đường lối tầm thường của tiểu nhân, nữ
tử, của Tô tần, Trương Nghi (Xem Dịch Kinh Lai Chú). Thaánh nhân không
mấy chuộng đường lối này.
ÁP DỤNG QUẺ
HÀM VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay có một số thanh niên ít nghĩ tới
hôn nhân, vì tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, hoặc vì không tin tìm được một
tình yêu chân thành. Nhưng họ đã nhầm, vì ở đời không có gì quí hơn có
một mái ấm gia đình, có người bạn đời, để chia vui sẻ ngọt với mình. Có
vài đứa con để quấn quít, vui đùa lúc trẻ và để khỏi cô quạnh lúc tuổi
già.
Muốn có tình yêu chân thành của người yêu,
và của con cái, thì mình phải tự xét mình, xem mình có thành khẩn mà
dành cho họ một tình yêu chân thành của mình không?
Để ca tụng hạnh phúc lứa đôi, Anatole
France, một văn sĩ người Pháp, nói rằng: Người vợ là một tình nhân của
chồng khi chàng còn trẻ, là người bạn đời khi tuổi chàng đã cao, là
người điều dưỡng cho chàng trong tuổi già. Vậy ở tuổi nào người đàn ông
cũng có lý do để lấy vợ. (Thế Kỷ 21, trang 52, số 83, tháng 3, năm
1996.)
Tóm lại, hạnh phúc không là của riêng ai,
nhưng người nào biết hưởng, mới được hưởng. và hạnh phúc ở trong tầm tay
mình đấy thôi.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|