HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50
51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
51.
震 為 雷 CHẤN VI LÔI
BÁT THUẦN CHẤN
Chấn Tự Quái |
震 序 卦 |
Chủ khí giả
mạc nhược trưởng tử. |
主 器 者 莫 若 長 子 |
Cố thụ chi
dĩ Chấn. |
故 受 之 以 震 |
Chấn giả
động dã. |
震 者 動 也. |
Chấn Tự Quái
Giữ gìn chủ khí, duy người trưởng nam.
Cho nên Chấn tiếp mối giường,
Chấn là chấn động, cương cường vần xoay.
Chấn có nhiều
nghĩa: Chấn là sấm, oai trời, trưởng nam, Đông cung Thái tử, là chấn
động, phấn động, kinh sợ. Tất cả nghĩa này, đều được dùng trong quẻ
Chấn.
Quẻ Chấn
tiếp theo quẻ Đỉnh do một sự liên tưởng. Đỉnh là một dụng cu khi tế
tự. Chấn là trưởng nam, có thể thay mặt cha tế tự. Vì thế sau quẻ
Đỉnh là quẻ Chấn.
I.
Thoán.
Thoán từ.
震
.
亨 . 震 來 . 笑 言 啞 啞
. 震 驚
百
里 .
不 喪 匕 鬯 .
Chấn. Hanh. Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách.
Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng.
Dịch.
Chấn là chấn động lôi đình,
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh xương.
Sấm
vang sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Sấm vang, trăm dặm sợ oai,
Vẫn thường bình tĩnh, chẳng rơi chén thìa.
Sấm
trời
cốt là để kích thích vạn vật, cho nên theo Trung Hoa, thì ngày xuân
phân thường có sấm, để đánh thức côn trùng tỉnh giấc đông miên, để
giáo đầu cho ngày Xuân mới tưng bừng trong hoa lá. Vì thế nói:
Chấn hanh. Đối với con người, thì những sự kinh mang, chấn
động trên đời đều có mục đích thức tỉnh con người biết đề phòng, úy
cụ, biết trở lại đường ngay, nẻo chính. Biết sợ oai trời, biết hồi
tâm, thuận phục những định luật của đất trời, sẽ đem lại hạnh phúc cho
con người. Vì thế Thoán nói: Chấn lai khích khích.
Tiếu ngôn hách hách. Đại khái rằng có biết úy cụ, đề phòng, thời sau
mới được hanh thông hoan lạc. Thánh Kinh Công giáo cũng viết: Kính
sợ Trời là khởi điểm của sự khôn ngoan (Ps. 110, 10.)
Nhưng sợ
để biết đề phòng, để biết tu tỉnh, chứ không phải sợ để tiêu hồn, lạc
phách. Cho nên Thoán lại dạy tiếp: Cần phải bình tĩnh.
Những người bình tĩnh khi gặp biến cố, mới đáng mặt trị dân. Ví dụ
như: Khi tiếng sấm lớn, vang động, kinh chuyển đến 100 dặm, mà mình
vẫn trấn tĩnh được tinh thần, vẫn tiếp tục hành lễ, không bị kinh tâm,
đến nỗi đánh rơi mất đồ tế khí (Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy
sưởng).
Thoán Truyện.
彖 曰
.
震 .
亨 . 震 來
虩 虩
. 恐 致 福 也 .笑 言 啞 啞
. 後 有 則 也 . 震 驚 百
里 . 驚
遠 而 懼 邇 也 . 出 可 以 守 宗 廟 社 稷
. 以 為 祭 主 也 .
Chấn
hanh. Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã. Tiếu ngôn hách
hách. Hậu hữu tắc dã. Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ
dã.
Dịch. Thoán rằng:
Chấn là chấn động lôi đình,
Khai
thông tắc uất, phỉ tình hanh xương.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười,
Rồi ra phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Lôi đình, trăm dặm kinh mang,
Xa kinh, gần sợ, bàng hoàng đôi nơi.
Ung dung, thìa chén chẳng rơi.
Miếu tông, xã tắc âu tài đảm đang.
Đáng tài gìn giữ miếu đường,
Đáng ngôi chủ tể, chững chàng, uy nghi.
Thoán
Truyện
bình rằng: Trời làm sấm động ra oai, là cốt để cho con người biết
khủng cụ, tu tỉnh, sau mới được hạnh phúc (Chấn hanh khủng trí phúc
dã). Con người sau sẽ cười vui, vì hành động đúng theo qui
tắc, định luật của trời đất (Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã). Câu này thoạt xem ngỡ tầm thường, nhưng thực ra hàm chứa một
ý nghĩa hết sức sâu xa, có hiệu quả vô cùng trọng đại. Thật vậy, vũ
trụ này được chi phối bằng những định luật nhất định. Có tìm ra được
những định luật thiên nhiên, có theo đúng được những định luật thiên
nhiên, nhiên hậu mới giải quyết được mọi căn do làm phiền sầu, khổ não
con người, mới đem lại được cho con người một đời sống thực sự. Tiếp
đến Thoán Truyện bình rằng: Gặp lúc kinh mang,
mọi người đều hoảng hốt, riêng Đông cung Thái tử hành lễ thay vua, nếu
vẫn giữ được bình tĩnh, thời đáng mặt giữ gìn tôn miếu, xã tắc
(Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất
khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã). Người lãnh đạo
cần phải bình tĩnh, mới giải quyết công việc quốc gia được.
Một
hôm, vua Đại Võ qua sông Giang, bị con rồng vàng đội thuyền lên,
cả thuyền đều sợ. Nhà vua không thay đổi thần sắc, nói: Ta chịu
mệnh Trời, một niềm tận tụy vì dân, sống chết của ta là do ý Trời,
rồng này làm gì được ta. Thoát thôi, rồng cúi đầu, cúp đuôi
lặn đi mất. (Wieger, Textes Historiques, tome 1, pp.38- 40)
II. Đại Tượng
Truyện.
象 曰
.
洊
雷
. 震 .
君 子 以 恐 懼 修
省 .
Tượng viết:
Tấn Lôi. Chấn. Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh.
Dịch. Tượng
rằng:
Chấn là sấm động
liên hồi,
Lo lường quân tử chau dồi tấm thân.
Người
quân tử phải biết sợ oai trời, mỗi khi thấy sấm động, sét vang, phải
biết sợ hãi và tu tỉnh. Tứ
thư, Ngũ kinh chuyên dạy người:
1. Kính sợ
trời.
2. Tu tỉnh.
Đức
Khổng cũng đã làm gương sự úy cụ oai trời. Khi có sấm dậy, gió to thì
mặt ngài biến sắc (Tấn lôi. Phong liệt. Tất biến (Hương đảng
X, câu 16). Kính sợ là cốt để tu sửa tâm hồn, tâm hồn được tu sửa sẽ
trở nên quang minh chính đại.
III. Hào Từ &
Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào
bàn về ý nghĩa của sự kinh cụ, và thái độ nên có, khi gặp trường hợp
kinh mang. Đại khái:
1. Sự
kinh cụ có mục đích chuyển hóa con người (Hào Sơ).
2. Lúc
gặp kinh mang, phải biết thủ thân vi đại (Hào nhị).
3. Lúc
gặp kinh mang, nên lo cải tà qui chánh (Hào tam)
4 . Lúc gặp
kinh mang, phải chấn tĩnh tinh thần, chứ đừng để tiêu ma hào khí (Hào
4).
5. Gặp
lúc kinh mang, phải hành xử cho phải, cho khéo (Hào 5).
6. Lâm nguy,
phải biết đề phòng, phải biết cải thiện đường lối (Hào 6)
1.
Hào Sơ Cửu.
初 九
.
震 來
虩 虩.
後 笑 言 啞 啞 .
吉 .
象 曰
.
震 來
虩 虩. 恐 致 福 也
.
笑 言 啞 啞 .
後 有 則 也
.
Sơ Cửu.
Chấn
lai khích khích. Hậu tiếu ngôn hách hách. Cát.
Tượng viết:
Chấn lai
khích khích. Khủng trí phúc dã.
Tiếu ngôn
hách hách. Hậu hữu tắc dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Sấm vang, sợ
hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Khúc kha, khúc khích, nói cười,
Rồi ra, mọi sự xong xuôi, tốt lành.
Tượng rằng:
Sấm vang, sợ hãi, lo
lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười.
Rồi ra, phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Hào
Sơ này hoàn toàn nhắc lại lời của Thoán từ. Để nhấn
mạnh lại một lần nữa ý nghiã của sự sợ hãi:
1. Có
biết sợ hãi, mới biết đề phòng, mới biết ăn ở cho phải đạo
2. Ăn ở
phải đạo, xử sự hợp lý sẽ được hạnh phúc.
3. Như
vậy, sự sợ hãi, sự kinh mang trên đời là cái hay, chứ không phải cái
dở. Con người, nếu cứ sống mãi trong hoan lạc, sẽ trở nên ù lì, ủy
mị, cho nên thỉnh thoảng cũng phải cho họ kinh mang, như vậy họ mới
biết lo lắng đề phòng, mới biết phấn tâm cầu tiến.
2.
Hào Lục nhị.
六 二
.
震 來 厲
. 億 喪 貝 . 躋 于 九 陵
. 勿 逐 .
七 日 得
.
象 曰
.
震 來 厲
. 乘 剛 也 .
Lục nhị.
Chấn lai lệ. Ức táng bối. Tê vu cửu lăng. Vật trục. Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Chấn lai lệ. Thừa cương dã.
Dịch.
Sấm vang
nguy hiểm mấy mươi,
Bao đồ tế nhuyễn, đi đời nhà ma.
Gò cao trốn
chạy cho xa,
Chẳng tìm của
mất, rồi ra cũng về.
Bảy ngày, của
lại được y.
Tượng rằng:
Sấm vang, nguy
hiểm mấy mươi.
Nguy vì đã cưỡi
lên người Dương cương.
Hào
Lục nhị
đặt câu hỏi: Gặp lúc kinh mang, nên giữ của hay nên giữ mạng sống?
Trả lời: tất nhiên sẽ phải bỏ của cải (Ức táng bối), để
mà cao chạy xa bay (Tê vu cửu lăng), thủ thân vi đại. Người
mà còn, thì của cũng sẽ còn, vì người
làm ra của, chứ của chẳng làm ra người.(Vật trục. Thất nhật đắc).
Tượng viết:
Chấn lai lệ. Thừa cương dã.
Theo Tượng
Truyện, thì sự kinh mang xẩy ra thường là vì mình vô tài, mà lại ăn
trên, ngồi chốc người có tài. Theo Dịch, thì Thừa cương chẳng
có bao giờ hay. Xin xem các quẻ, các Hào sau đây để so sánh:
Truân Lục nhị, Dự Lục ngũ, Phệ hạp Lục nhị, Khốn
Lục tam.
3.
Hào Lục tam.
六 三
.
震 蘇 蘇
. 震 行 無 眚 .
象 曰
.
震 蘇 蘇
. 位 不 當 也 .
Lục tam.
Chấn tô tô. Chấn hành vô sảnh.
Tượng viết:
Chấn tô tô. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Sấm vang,
ngơ ngác, ngác ngơ,
Sợ run, bỏ ác
quay ra làm lành.
Làm lành, tai
hại hết sinh.
Tượng rằng:
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Bởi vì ngôi vị
đang là dở dang.
Hào
Lục tam
mô tả hạng người gặp nguy cơ, thời thất thần, hốt hoa hốt hoảng
(Chấn tô tô). Thất thần, hốt hoảng dĩ nhiên là không hay. Nhưng
nếu biết nhân dịp này mà cải tà qui chính, thì chẳng có gì đáng trách
(Chấn hành vô sảnh). Tượng viết: Chấn tô tô vị bất
đáng dã. Không có tài đức xứng ngôi vị, gặp lúc kinh mang, sẽ hốt
hoảng không biết lui tới ra sao.
4.
Hào Cửu tứ.
九 四
.
震 遂 泥
.
象 曰
.
震 遂 泥
. 未 光 也 .
Cửu tứ.
Chấn toại nê.
Tượng viết:
Chấn toại nê. Vị quang dã.
Dịch.
Chấn
không động, lại đắm chìm,
Tượng
rằng:
Chấn
không động, lại đắm chìm,
Chưa thông sáng
đủ, cho nên sa lầy.
Hào
Cửu tứ.
Có những người
gặp lúc kinh mang, muốn phấn động để làm chủ tình thế, nhưng vì tinh
thần chưa đủ mạnh, nên không sao thoát khỏi thế kẹt, y như người chìm
đắm giữa gian nguy, chưa có kế thoát thân. Tượng Truyện bình rằng: Bê
bết, mắc kẹt, là vì chưa đủ sáng suốt (Chấn toại nê. Vị quang dã).
5.
Hào Lục ngũ:
六 五
.
震 往 來 厲
. 億 無 喪 . 有 事
.
象 曰
. 震
往 來 厲 . 危 行 也 .
其 事 在 中 . 大
無 喪 也
.
Lục ngũ.
Chấn vãng lai lệ. Ức vô táng hữu sự.
Tượng viết:
Chấn vãng lai
lệ. Nguy hành dã. Kỳ hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm
vang, đi lại hiểm nghèo,
Nhưng không mất mát, vẫn điều nên công.
Tượng rằng:
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nghĩa là đi đứng cheo leo, nguy nàn.
Chữ trung, ghi tạc tâm xoang,
Sẽ không mất mát, chu toàn trước sau.
Hào Lục ngũ.
Gặp lúc kinh
mang, tiến lui đều nguy hiểm, nếu biết xử sự cho hay, cho khéo, thời
cũng chẳng mất mát gì, mà còn có thể nên công. Tượng viết:
Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ sự tại trung. Đại vô táng dã.
Lục ngũ tuy gặp nguy, nhưng vì đắc trung, tức là biết xử cho hay,
cho phải, cho nên chẳng mất mát, thiệt hại gì.
6.
Hào Thượng Lục.
上 六
.
震 索 索
. 視 矍 矍 . 征 凶
. 震 不 于
其 躬
.
于 其 鄰 . 無 咎
. 婚 媾 有 言 .
象 曰
. 震
索 索 . 未 得 中 也 .
雖 凶 無 咎 . 畏 鄰 戒
也 .
Thượng Lục.
Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung. Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn.
Tượng viết:
Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang
từng trận ầm ầm,
Nhớn nha nhớn
nhác, thất thần nhìn quanh.
Ra đi, âu sẽ
chẳng lành,
Mình đâu bị sấm, sấm hành lân bang.
Phòng xa, âu sẽ
chu toàn,
Mặc lời đàm
tiếu, họ hàng nhỏ to.
Tượng rằng: Sấm động ầm ầm,
Sợ vì xử sự
chưa nhằm, chưa hay,
Tuy rằng: Chẳng
được mắn may,
Nhưng mà cũng
chẳng đơn sai, lỗi lầm.
Gương người,
nên lấy làm răn.
Hào Thượng Lục.
Gặp lúc kinh
mang đến cực độ, tinh thần có thể bị thất tán, dung mạo có thể bị phờ
phạc, lúc ấy làm gì cũng dở (Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh
hung). Hay hơn hết là phải biết liệu lý, khi họa chưa cập thân,
thấy người mắc nạn, phải lấy đó làm bài học, sửa sang lề lối cho kịp
thời, tránh họa hoạn cho đúng lúc, mới là biết xử, còn chuyện người ta
phê bình chỉ trích, chẳng nên quan tâm (Chấn bất vu kỳ cung. Vu
kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn).
Tượng viết:
Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu.
Úy lân giới dã.
Lúc gặp kinh
mang, mà mất tinh thần, thời dĩ nhiên là chưa có một thái độ lý tưởng.
Nhưng nếu biết trông gương người mà tự răn, tự nhủ, thì cũng chẳng có
gì là đáng trách.
ÁP DỤNG
QUẺ CHẤN VÀO THỜI ĐẠI
Phải biết kính sợ
trời. Mỗi lần nghe thấy sấm sét, thì là Trời muốn thức tỉnh vạn vật
nói chung, và loài người nói riêng, để họ phải tự xét mình mà sửa đổi
những lỗi lầm đang mắc.
Nói gần
hơn, là dạy ta phải biết kính trọng cha mẹ, và phải biết nghe lời cha
mẹ. Trên đời này, chỉ có tình của cha mẹ đối với con cái là chân thật
hơn cả. Vợ, chồng, anh, em, con, cháu, bè bạn, kẻ ăn người ở trong
nhà, đều có thể phản ta, lừa gạt ta; chỉ có cha mẹ ta là không bao
giờ lừa gạt ta, hại ta. Khi ta lầm lỗi, cha mẹ trách mắng ta, đó
là chỉ muốn cho ta hay, và khi đó cha mẹ rất đau lòng vì những lỗi lầm
của ta. Cha mẹ phải vất vả, bôn ba trong cuộc sống, phần lớn là lo
cho con có một đời sống đầy đủ và vững chắc hơn. Nhưng phận làm con
đã lo được gì cho cha mẹ? Chẳng những thế có nhiều người con đã chẳng
kể gì những lời khuyên răn của cha mẹ, mà còn coi những lời dạy bảo đó
là lỗi thời, lạc hậu, mà chỉ nghe những lời của bè bạn xấu xúi bẩy, để
rồi đưa cuộc đời mình vào chỗ không lối thoát.
Tóm
lại, như khi Trời nổi sấm là có ý cảnh tỉnh ta. Vậy khi cha mẹ
dạy bảo ta, là cảnh tỉnh ta, do đó có la mắng ta, thì ta đừng cãi lại,
làm cho cha mẹ đau lòng. Có đôi lúc lời răn dạy đó cũng nóng nẩy, vội
vã, nhưng dù sao cũng phát ra tự lòng thương con, sợ con bị nguy hại,
nên phải cản ngăn con đó thôi. Vậy bổn phận làm con, mỗi khi bị cha
mẹ rầy la, phải bình tâm xem lời răn dạy đó có đúng không? Bậc cha mẹ
là những người từng trải hơn ta, lẽ dĩ nhiên có kinh nghiệm trong cuộc
sống hơn ta, nên những lời dạy dỗ đó không nhiều thì ít cũng có lợi
ích cho ta. Vì vậy, ta phải kịp thời sửa đổi những lỗi lầm của ta nếu
có, để cho cha mẹ vui lòng, và để ta khỏi hối hận, phàn nàn về sau.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50
51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|