HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60
61
62
63 64
61.
風 澤 中 孚
Phong TrẠch
Trung Phu
Trung Phu Tự
Quái |
中 孚 序 卦 |
Tiết nhi tín
chi. |
節 而 信 之 |
Cố thụ chi
dĩ Trung Phu. |
故 受 之 以 中 孚 |
Trung Phu Tự
Quái
Có chừng, có mực, rõ rồi.
Mực chừng, tiết độ, người người sẽ tin
Trung Phu, vì thế tiếp thêm.
Sau quẻ Tiết là
quẻ Trung Phu, vì lẽ đã lập ra tiết chế, kỷ cương, thì trên dưới đều
phải thực thi áp dụng, như vậy mới vẹn tín nghĩa. Trung Phu có nhiều
nghĩa:
1.
Trung Phu được hiểu là sự Tín thành. Các nhà bình giải cho
rằng Trung Phu dạy ta thủ tín, tức dạy ta giữ chữ tín.
2. Trung Phu
được hiểu là sự Tinh thành, tức là một trạng thái tâm thần siêu
việt, sống động, hùng dũng tuyệt vời, có năng lực cảm hóa được vạn
hữu.
Người xưa nói:
Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai. Nghĩa là:
Đạt tới tinh thành, đá vàng sẽ mở.
Nơi quẻ Trung
Phu, ta thấy trên có quẻ Tốn là phía Đông, là mùa Xuân. Dưới có quẻ
Đoài là phía Tây, là mùa Thu. Tốn cũng có nghĩa là gỗ. Gỗ cần được
kim đẽo gọt, mới thành khí cụ hữu dụng. Đoài cũng có nghĩa là kim.
Quẻ Trung Phu
có:
- Hai Hào 3, 4
là Âm ở giữa chỉ sự hư linh bất muội. Hào 2, 5 đều là Dương chỉ sự
minh chính, tinh thuần.
Muốn đạt tới
trạng thái Trung Phu, trạng thái Tinh thành, tâm hồn chúng ta phải hư
linh, không để cho dục tình phát động, và son sắt, không để cho ngoai
cảnh lôi cuốn.
Thánh hiền đạt
được mức tinh thành, sẽ sai khiến được vạn hữu. Thánh kinh Công giáo
viết: Nếu ngươi có đức tin bằng hạt cải, ngươi có thể bảo núi này:
hãy rời đi nơi khác, và nó sẽ rời đi. Và chẳng có gì mà ngươi không
làm được. (Xem Mat, 17, 19; Luc 17, 6). Các Thánh hiền Á đông
xưa nay cũng đã dùng sức mạnh này mà hàng long, phục hổ.
I. Thoán.
Thoán từ.
中 孚
. 豚 魚 吉 .
利 涉 大 川 . 利 貞 .
Trung Phu.
Đồn ngư cát. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh.
Dịch.
Trung Phu
là nghĩa tín thành,
Làm cho vạn vật
an lành, mới hay.
Cá, heo còn cảm
đức dày,
Thời cho sông
rộng, sóng dầy vẫn qua,
Vượt sông vẫn
lợi mới là,
Một niềm trung
chính, lợi cơ mới nhiều.
Khi lòng đã tinh
thành, sẽ cảm động được đến những loài vật hạ đẳng như heo. cá. Lúc
ấy dầu có phải vượt gian hiểm cũng không sao, trái lại vẫn hay, vẫn
lợi.
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰
.
中 孚
. 柔 在 內 而 剛 得 中 . 說
而 巽 .
孚
乃 化 邦 也 . 豚 魚 吉
. 信 及 豚
魚 也 . 利 涉 大 川 .
乘 木 舟 虛 也 .
中 孚 以 利 貞
. 乃 應 乎 天 也 .
Trung phu. Nhu
tại nội nhi cương đắc trung. Duyệt nhi tốn. Phu nãi hóa bang dã. Đồn ngư cát. Tín cập đồn ngư dã. Lợi thiệp đại xuyên. Thừa mộc chu
hư dã. Trung Phu dĩ lợi trinh. Nãi ứng hồ thiên dã.
Dịch.
Trung Phu
mềm ở bên trong,
Cứng ngoài, vả lại đắc trung, mới tài.
Vui hòa, tốn
thuận với người,
Tinh thành sẽ
đổi được đời, được dân.
Cá, heo phúc
trạch thấm nhuần,
Cá, heo mà cũng
thừa ân tín thành.
Vượt sông, mà
vẫn lợi hanh,
Thuyền không,
chèo lái mặc tình thỏa thuê.
Trung trinh,
sau trước vẹn bề,
Đạo Trời ứng
hợp, việc gì cũng hay.
Thoán
Truyện, trước hết nhìn theo hình dáng quẻ Trung phu, mà
giải quẻ Trung phu. Quẻ Trung phu có 2 Hào Âm ở giữa, thế là
Nhu tại nội. Lại có Hào Cửu nhị và Cửu ngũ dương cương đắc
trung, nên nói: Nhi cương đắc trung. Các nhà
bình giải cho rằng: đó là trạng thái của một tâm hồn hư linh,
không bị vật dục chia phối, ngoại dụ lôi cuốn. Quẻ Trung phu dưới
có quẻ Đoài là duyệt; trên có quẻ Tốn là thuận, cho nên Thoán nói
Duyệt nhi Tốn.
Nếu người trên
từ tốn, khéo xử, thuận theo người dưới; nếu người dưới vui vẻ vâng
phục người trên; nếu đôi đàng mà thành khẩn đối xử với nhau, thì quốc
gia sẽ đi đến chỗ hóa thành thịnh trị. Thoán tiếp:
Phu nãi hóa bang dã.
Thứ đến,
Thoán Truyện giải thích lời lẽ của Thoán từ, cho rằng Tinh thành
mà hay, mà lợi, chính là vì đã có thể cảm được đến cả những loại
vật hạ đẳng như heo, như cá (Đồn ngư cát. Tín cập đồn ngư dã).
Lúc đã có lòng tinh thành, dẫu có gặp nguy biến cũng không sao. Cuối cùng Thoán Truyện nghị luận rằng: Nếu mình mà tinh thành theo
được chính lý, chính đạo, thì sẽ cảm ứng được với trời. Thế tức là:
Chí thành cảm thần vậy.
II. Đại Tượng
Truyện.
Tượng viết.
象
曰 .
澤 上 有 風 . 中 孚 .
君 子 以 議 獄 緩
死 .
Trạch thượng hữu
phong. Trung phu. Quân tử dĩ nghị ngục hoãn tử.
Dịch. Tượng
rằng:
Trung Phu gió
lộng mặt hồ,
Trị dân, quân
tử phải lo, phải lường.
Án mình xét xử cho tường,
Chém người chớ
vội, phải nương, phải chờ.
Gió thổi mặt hồ
là Trung phu. Người quân tử phải lo bình nghị hình án cho sáng
suốt, và đừng nên vội vàng xử tử người.
Đem lòng chí thành mà đối với dân, dĩ nhiên là phải thương dân. Lòng thương xót của nhà cầm quyền, không những là đối với chúng dân
lương thiện, mà còn phải phổ cập cho đến những người bị tù tội, hình
án nữa. Thánh hiền xưa rất lưu tâm đến vấn đề hình án. Trong Đại
Tượng của 64 quẻ Dịch, có 5 quẻ nói về hình án, đó là quẻ:
Phệ Hạp, Bí, Phong, Lữ, Trung phu. Dị Sử thị khi bình Truyện Oan Ngục
trong Liễu Trai có viết: Xử án là nhiệm vụ đầu tiên của người làm
quan. Bồi đắp hoạ phúc hay diệt mất lẽ Trời, đều do đấy mà ra, không
thể không thận trọng.
-Vội vã, táo bạo
trong việc xử án, tức là làm trái với lẽ cầu hòa của trời.
-Để việc dây
dưa không xét xử cho chúng, cũng là làm thương tổn đến cái mạng của
người dân.
Thế cho nên, một
vụ kiện hại bằng mấy vụ mất mùa. Xây một cái thành, tất mấy mươi nhà
phá sản, như thế há sao không cẩn thận được? Ta thường cho rằng
kẻ làm quan mà biết dè dặt, không quá lạm trong văn án, tức là đức đã
dầy lắm rồi (Xem Liễu Trai chí dị, Nguyễn Hoạt dịch, quyển 11,
trang 65).
Lễ ký, Thiên
Vương Chế, đã cho ta thấy rõ sự thận trọng của người xưa về hình án. Một vụ hình án, trước khi phán quyết, đã phải qua bao nhiêu tòa, xem
đi, xét lại. Mới đầu nơi Quan Sử (lục sự), kế
Quan chính (quan án trong mỗi phủ), rồi Đại Tư Khấu
(Tổng trưởng Tư pháp), Tam công (3 quan Thượng
thư xét xử lại), cuối cùng mới đệ lên Vua. Vua xét rồi
mới tuyên án phạt. Như vậy là hết sức cẩn trọng, và không dám tuyên
án hấp tấp.
III. Hào từ &
Tiểu Tượng Truyện
Đặc biệt trong
phần giải thích các Hào,
tôi (tác giả)
muốn hiểu Trung phu là Tinh thành, thay vì hiểu Trung phu là
Thủ tín.
1.
Hào Sơ
Cửu.
初 九
.
虞 吉
. 有 他 不 燕 .
象 曰
.
初 九 虞 吉
. 志 未 變 也 .
Sơ
Cửu.
Ngu cát. Hữu tha bất yến.
Tượng viết:
Sơ
Cửu ngu cát. Chí vị biến dã.
Dịch.
Chưa tin,
cân nhắc mới hay,
Tin rồi, đừng có đổi thay dễ dàng.
Nếu mà đi trái
lối đường,
Rồi ra sẽ thấy
tâm xoang bồi hồi.
Tượng rằng:
Hào Sơ cân nhắc mà hay,
Là vì tâm trí
chưa thay, chưa rời.
Sơ Cửu.
Muốn đạt tới
Tinh thành, cần phải biết đề phòng, ngăn chặn tà tâm, dục vọng và giữ
lấy tấm lòng sắt son của mình (Ngu cát). Nếu có tà niệm, tạp
niệm (Hữu tha), tự nhiên chúng ta sẽ bất định, bất an
(Bất yến). Nếu ta giữ được như vậy, mọi sự sẽ tốt lành, vì lòng
ta vẫn tinh tuyền chưa bị ngoại cảnh làm biến đổi (Sơ Cửu
ngu cát. Chí vị biến dã).
2.
Hào Cửu nhị.
九 二
.
鳴 鶴 在 陰
. 其 子 和 之 . 我 有 好 爵
.
吾 與 爾 靡 之
.
象 曰
.
其 子 和 之
. 中 心 愿 也 .
Cửu
nhị.
Minh hạc tại âm. Kỳ tử họa chi. Ngã hữu hảo tước. Ngô dữ
nhi mỹ chi.
Tượng viết:
Kỳ tử hòa chi. Trung tâm nguyện dã.
Dịch.
Hạc kêu khuất nẻo đâu đây,
Mẹ kêu, con
hát, cả bầy hòa minh.
Ta đây có rượu
thần linh,
Ta đem ta xẻ,
ta dành cho ai.
Tượng rằng:
Hạc con ứng
tiếng kêu theo,
Là vì trong dạ
tin yêu, chí tình.
Hào Cửu nhị
nói lên lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Hạc kêu nơi khuất nẻo, vẫn có hạc con hoạ lại (Minh hạc tại
âm. Kỳ tử họa chi). Ta có rượu ngon, vẫn có người đến chia xẻ
với ta. Ta hay, thời ảnh hưởng sẽ dần lan ra xa mãi (Ngã hữu hảo
tước. Ngô dữ nhi mỹ chi).
Khi mình đạt mức
tinh thành, sẽ ảnh hưởng đến người, ảnh hưởng ấy sẽ hết sức tự nhiên,
sẽ được người chấp nhận một cách thực tình, không gò bó, miễn cưỡng
(Kỳ tử
hòa chi. Trung
tâm nguyện dã).
3.
Hào Lục tam.
六 三
.
得 敵
. 或 鼓 或 罷 . 或 泣 或 歌
.
象 曰
.
可 鼓 或 罷
. 位 不 當 也 .
Lục
tam.
Đắc địch. Hoặc cổ hoặc bãi.
Hoặc khấp hoặc ca.
Tượng viết:
Hoặc cổ hoặc bãi. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Để người
mặc sức cuốn lôi,
Lúc thời vồ
vập, lúc thời bỏ bê.
Lúc thời khóc lóc ủ ê,
Lúc thời hát
xướng, đam mê, vui đùa.
Tượng rằng:
Khi vồ vập, lúc bỏ bê.
Là vì địa vị có
bề dở dang.
Lục tam.
Những người
không có lòng tinh thành, không có sức mạnh tinh thần, sẽ đua đòi
chúng bạn (Đắc địch), sống một cuộc đời phù phiếm, hốt hỉ, hốt
nộ, lúc hứng khởi, lúc mất tinh thần (Hoặc cổ hoặc bãi); lúc
khóc lóc, lúc ca xoang (Hoặc khấp hoặc ca). Đó là đời sống của
đại đa số quần chúng.
Thánh kinh Công
giáo cũng đã nói: Ta biết sánh thế hệ này với ai? Nó giống như một
bầy trẻ ở những nơi công cộng, đang kêu la cùng chúng bạn. Ta đã thổi
sáo, sao chúng bay không nhẩy múa; ta đã hát bài bi ai, sao chúng bay
không đấm ngực than van? (Mat, 11, 16 - 17).
Sống như vậy đâu
xứng đáng? (Hoặc cổ hoặc bãi. Vị bất đáng dã).
4.
Hào Lục tứ.
六 四
.
月 几 望
. 馬 匹 亡 . 無 咎
.
象 曰.
馬 匹 亡
. 絕 類 上 也
Lục tứ.
Nguyệt cơ vọng. Mã thất vong. Vô cữu.
Tượng viết:
Mã thất vong. Tuyệt loại thượng dã.
Dịch.
Vầng
trăng sắp sửa tới rằm,
Ngựa quên bầu
bạn, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Ngựa quên bầu bạn, cặp kè,
Tuyệt tình đồng
loại, theo về với trên.
Lục tứ
là một trọng thần, gần gũi quân vương. Ở vào địa vị này, phải đem hết
lòng tinh thành, chân thực mà thờ vua.
- Phải khiêm
cung, đừng có mong quá thịnh mãn (Nguyệt cơ vọng).
- Phải như vầng
trăng chưa tròn mới hay; thần tử mà như vầng trăng tròn, tức là muốn
cạnh tranh, đối địch với vua. Mà muốn đối địch với vua, tức là chiêu
lấy tai hoạ.. Lại không được hợp bầy, kết đảng, phải một lòng vì vua
như con ngựa hay, khi kéo xe trên đường trường, chỉ biết ruổi rong,
đến nỗi quên cả những con ngựa bạn (Mã thất vong. Vô cữu).
Tượng nhắc lại:
người ở ngôi trọng thần, phải biết quên bầy bạn, một lòng phục vụ quân
vương (Mã thất vong. Tuyệt loại thượng dã).
5.
Hào Cửu ngũ.
九 五
.
有 孚 攣 如
. 無 咎 .
象 曰
.
有 孚 攣 如
. 位 正 當 也 .
Cửu ngũ.
Hữu phu luyến như. Vô cữu.
Tượng viết:
Hữu phu luyến như. Vị chính đáng dã.
Dịch.
Lấy lòng
thành tín cảm dân,
Khát khao, ràng
buộc lỗi lầm khỏi lo.
Tượng rằng:
Lấy lòng thành tín cảm dân,
Khát khao ràng
buộc, đáng phần xứng ngôi.
Ở ngôi Cửu ngũ,
đấng quân vương phải biết đem dạ chí thành để cảm thông thiên hạ. Được vậy, muôn dân sẽ gắn bó để phục vụ mình (Hữu phu luyến như. Vô cữu). Bậc quân vương mà xử sự được như vậy, thực là khéo léo,
tốt đẹp, và xứng đáng (Hữu phu luyến như. Vị chính đáng dã).
6.
Hào Thượng
Cửu.
上 九
.
翰 音 登 于 天
. 貞 凶 .
象 曰
.
翰 音 登 于 天
. 何 可 長 也 .
Thượng Cửu.
Hàn âm đăng vu thiên. Trinh hung.
Tượng viết:
Hàn
âm đăng vu thiên. Hà khả trường dã.
Dịch.
Gà kêu
tưởng thấu đến trời,
Khăng khăng
tưởng thế, thế thời chẳng hay.
Tượng rằng:
Gà kêu đòi thấu đến trời,
Làm sao có thể
lâu dài được đâu.
Thượng Cửu.
Gà mà
muốn kêu thấu tận trời sao được? Hoa hoét, loè loẹt bên ngoài, mà
không có thực chất tinh thành bên trong, làm sao mà hay được?
Không tinh thành
làm sao mong cảm hoá được người? Gà muốn kêu thấu trời, làm sao mà đến
được? Không tinh thành, làm sao cảm hóa người khác về lâu, về dài
được? (Hàn âm đăng vu thiên. Hà khả trường dã).
ÁP DỤNG QUẺ TRUNG PHU VÀO
THỜI ĐẠI
Quẻ Trung Phu có hai cách giải: Thứ nhất, con người sinh ra đời,
phải biết giữ chữ tín, nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy
tức một lời nói ra bốn ngựa không theo kịp.
Đúng vậy, ra đời muốn buôn bán hay làm gì cũng vậy, ta cần
phải giữ chữ Tín, nghĩa là khi đã nói hoặc đã hứa với ai điều
gì, thì phải giữ lời, chứ đừng bạ đâu hứa đấy, hứa cho đẹp lòng người
nghe lúc đó, sau rồi lại chối hoặc nuốt lời, không thực hiện đúng lời
hứa, điều này người quân tử, hoặc đàng hoàng, đứng đắn không bao giờ
làm.
Thứ hai, là dạy con người phải tiến đến chỗ Tinh
hoa hoàn thiện, tức là phải tiến đến chỗ tinh thành. Ai
trong chúng ta, cũng đã có mầm mộng thần linh sẵn có trong con người. Nhưng ít người hay biết chuyện đó, và ít người làm cho mầm mộng thần
linh đó triển dương được tới chỗ tinh hoa, hoàn thiện.
Tinh thành là ta
phải có lòng thành khẩn một cách sáng suốt. Làm việc hay xử sự gì,
thì phải chuyên tâm, nhất trí làm cho được việc đó và phải làm một
cách sáng suốt. Muốn đạt tới trạng thái Tinh thành, tâm hồn ta
phải hư linh, không để cho dục tình phát động, không để cho ngoại cảnh
chi phối. Muốn tiến tới chỗ tinh hoa, hoàn thiện, phải biết tẩy rửa
tâm hồn cho sạch mọi lỗi lầm, phải biết hiếu sinh, phải biết thương
yêu đồng loại, phải biết thương dân như con. Vì thế quẻ Trung Phu dạy
phải thận trọng về hình án.
Những người đạt
tới Tinh thành, có thể hàng long, phục hổ, sai khiến vạn vật. Thánh
Francois d' Assise xưa đã thu phục được lang sói, đã giảng đạo cho cá
nghe vv... thật là phi
thường
Một đấng quân
vương mà có lòng Tinh thành, phải thương dân như
con đỏ. Trung Hoa, về đời nhà Đường, sau loạn An Lộc Sơn, rất
nhiều người bị bắt oan. Vua Đường Túc Tôn sai Tô Kỳ đi trọng nhậm Lư
Châu ở phiá Tây Bắc để thanh tra các việc hình án. Trước khi Tô Kỳ
đi, vua có dụ rằng: Nhân dân đều là con đỏ của triều đình, vì đói rét
hay vì ngu dốt mà phạm tội, trẫm rất lấy làm thương xót. Vậy trừ
những kẻ cùng hung, cực ác ra, còn thảy đều nên khoan thứ, khiến cho
chúng được có dịp sửa mình. Khanh ra đó, nên thể theo ý Trẫm, cứu vớt
lấy hàng vạn lương dân. (Xem Trung Bắc chủ nhật, số Tết Quí Mùi
(1943). Các vua nhân đức như Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang vv...
đều thương dân như con cả. Ở nước ta, có vua Lê Thánh Tôn cũng thương
dân như con vậy.
Ta đừng nói
rằng: chuyện con người sinh ra là để tiến tới hoàn thiện, là một điều
không tưởng, vì xưa nay mấy ai làm được như vậy. Sở dĩ như vậy, vì xưa
nay ít sách vở bàn về chuyện này mà thôi. Con người sinh
ra, không thể mãi sống vô định hướng, mà chúng
ta cần phải vạch cho đồng loại một hướng đi nghĩa lý.
Nếu con người
sinh ra không phải để tiến hóa, thì để làm gì ? Để sinh con, đẻ cái,
để sống một cuộc đời lo nhiều hơn là bình thản, hay để nuôi con cho
chúng thành danh, thành tài, rồi sau đó sẽ ra sao?. Nếu ta cứ đặt ra
những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ đi vào vòng luẩn quẩn hết sức là vô
lý. Ta thấy Dịch, khi thì dạy ta những bài học thấp như sống
cần phải thích ứng với hoàn cảnh, khi thì dạy ta những bài học
rất cao, như là con người sinh ra phải tiến tới Tinh thành hoàn
thiện. Còn ba quẻ nữa là hết Kinh Dịch, mà nay đưa ra vấn đề
là Con người phải tiến đến Tinh Hoa, thật là quá đẹp đẽ.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60
61
62
63 64
|