HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58
59
60 61
62
63 64
59.
風 水 渙 Phong ThỦy Hoán
Hoán Tự Quái |
渙 序 卦 |
Đoài giả
duyệt dã. |
兌 者 說 也 |
Duyệt nhi
hậu tán chi. |
說 而 後 散 之 |
Cố thụ chi
dĩ Hoán. |
故 受 之 以 渙 |
Hoán giả ly
dã. |
渙 者 離 也 |
Hoán Tự Quái
Đoài là vui sướng, vui rồi ly tan.
Cho nên lấy Hoán mà bàn.
Hoán là xẻ nghé, tan đàn, phôi pha.
Nếu ở đời mà ai
cũng chỉ lo mua vui, tìm lạc thú riêng cho mình thì xã hội sẽ đi đến
chỗ phân ly, chia rẽ.
Hoán cũng
nghĩa là làm cho tiêu tan mọi duyên do phân ly, chia rẽ,
như gió (Tốn) thổi tan những cục băng giá trên mặt nước
(Khảm) buổi đầu xuân.
Thoán và Tượng
bàn tới những phương cách mà đấng quân vương có thể dùng để đoàn kết,
qui tụ dân chúng, trong thời kỳ ly tan, chia rẽ. Các Hào chủ trương
phải trừ khử, phải gạt bỏ hết mọi duyên do gây chia rẽ.
I. Thoán.
Thoán từ.
渙
. 亨 . 王 假 有 廟 .
利 涉 大 川 . 利貞 .
Hoán. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi thiệp đại xuyên.
Lợi trinh.
Dịch.
Hoán là
chia rẽ, ly tan,
Ly tan, mà biết hợp đoàn mới hanh.
Vua ra tế tự
miếu đình,
Băng qua sông
lớn, công trình sẽ hay.
Một lòng chính
chính, thẳng ngay.
Thế thời mới
lợi, mới hay vẹn bề.
Hoán là thời kỳ
ly tan, chia rẽ, tưởng chừng như mọi sự sẽ đi đến chỗ bế tắc. Những
bậc quân vương, có thể giải tỏa được bế tắc ấy, có thể đem lại sự đoàn
kết cho dân, làm cho tình thế lại trở nên thông suốt (Hoán. Hanh).
Muốn được vậy,
nhà vua phải có lòng thành khẩn, cần phải dùng tín ngưỡng đạo giáo,
làm chiêu bài để qui dân, tụ chúng (Vương cách hữu miếu), hoặc
đề xướng, hô hào làm một đại công, đại sự gì để mọi người có dịp chung
lưng, góp sức, trở nên đồng hội, đồng thuyền. Đó không phải là một
chuyện liều lĩnh, nhưng chính là một chuyện hữu ích (Lợi thiệp đại
xuyên). Dẫu sao, trong công trình này, nhà vua cũng phải lấy
chính lý, chính đạo làm phương châm, mới hay, mới lợi (Lợi trinh).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰.
渙
亨 . 剛 來 而 不 窮
. 柔 得 位 乎 外 而
上 同 . 王 假 有 廟 . 王 乃 在 中 也 . 利
涉 大 川 . 乘 木 有 功 也 .
Hoán hanh. Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng. Vương
cách hữu miếu. Vương nãi tại trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Thừa
mộc hữu công dã.
Thoán rằng:
Hoán tán mà hay,
Bên trong
cương nghị, thẳng ngay chẳng cùng.
Ngoài thời nhu
thuận, khiêm cung,
Thuận ngôi, vả
lại đẹp lòng với trên.
Vua ra tế tự
miếu đền,
Lòng dân, vua
muốn giữ bền trước sau,
Lợi là băng vượt
sông sâu
Vượt sông dùng
gỗ, mới hầu nên công.
Thoán Truyện.
Trong
thời kỳ chia ly bế tắc, vẫn có thể làm cho tình thế trở nên thông suốt
được (Hoán hanh). Đó là biết cả cương, lẫn nhu, lại biết dưới
trên chung lưng, góp sức làm việc. Câu Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng tương đối khó giải.
Chu Hi giải
thích: Quẻ Hoán là do quẻ Tiệm sinh. Hào Cửu tam quẻ Tiệm xuống thành
Hào Cửu nhị quẻ Hoán. Hào Lục nhị quẻ Tiệm lên thành Hào Lục tam quẻ
Hoán, và như vậy sẽ đồng điệu với Hào Lục tứ bên trên (Nhi thượng
đồng). Lối giải của Chu Hi hợp với phép biến quái, nhưng
lại không giải được chữ Nhu đắc vị hồ ngoại, vì Lục tam là Âm
cư Dương vị, nên không đắc vị.
Nơi
đây, ta chỉ nên ghi nhận đại ý là: muốn giải quyết tình trạng
chia rẽ, thời phải áp dụng cả cương lẫn nhu, vua
tôi phải đồng lao, cộng tác, trên dưới phải dựa nương lẫn vào nhau. Muốn liên kết mọi người, nhà vua cần phải dùng tín ngưỡng, dùng đạo
giáo làm chiêu bài để thu phục nhân tâm, vì thế nói Vương cách hữu
miếu. Vương nãi tại trung dã. Vương nãi tại trung là vua
thu phục được lòng dân. Muốn được dân, phải thu phục được lòng dân. Lúc nhân tâm chia rẽ, cũng nên đề xướng ra những đại công trình để mọi
người có mấu chốt mà bám víu, có lý do để đồng lao, cộng tác (Lợi
thiệp đại xuyên).
Ngự Án bình
rằng: Dầu là người nước Tần, nước Việt, mà đi cùng chuyến đò, thì cũng
sẽ hết sức hợp tác với nhau (Tần Việt nhi cộng chu, tắc tâm lực vô
hữu bất đồng). Muốn làm những công việc vĩ đại, nhà vua cần phải
có hiền thần phụ bật, y như người muốn vượt sông sâu, nước cả, phải có
thuyền, có chèo (Thừa mộc hữu công dã).
Xưa nay, muốn
đoàn kết nhân tâm, người ta thường hay dùng chiêu bài tín ngưỡng, đạo
giáo, chẳng hạn như gần đây Nasser đã dùng Hồi giáo làm chiêu bài để
liên kết các nước Ả Rập. Hơn nữa, sau các cuộc Cách Mạng, khi nhân
tâm còn ly tán, người ta cũng thường muốn làm một chuyện gì lớn lao,
để liên kết nhân tâm, như ít lâu sau cuộc Cách Mạng Pháp, các nhà lãnh
đạo đã dùng Bonaparte để đi chinh phục nước Ý và Ai Cập.
Đọc Thoán Từ ta
thấy Thoán tha thiết muốn cho bậc quân vương có tài đức, nhưng lại
sống trong buổi nhân tâm ly tán, phải tìm hết mọi phương thế để thống
nhất đất nước, đoàn kết nhân tâm, để sớm đem an bình thái thịnh về cho
nhân quần xã hội.
II. Đại Tượng
Truyện.
Tượng viết:
象
曰 .
風 行 水 上 . 渙 .
先 王 以 享 于 帝 立 廟 .
Phong hành thủy
thượng. Hoán. Tiên vương dĩ hưởng vu Đế lập miếu.
Dịch. Tượng
rằng:
Hoán
là mặt nước gió bay,
Tiên vương xây
cất đền đài, miếu tông.
Trước là phụng sự hoá công.
Sau là phụng sự
cha ông xưa rầy.
Gió thổi trên
nước là hoán. Tiên vương tế lễ Thượng đế, xây cất đền miếu. Wilhelm bình rằng: Mùa Thu, Đông, nước đông thành đá. Mùa Xuân gió
ấm thổi, làm tan hết đá cục trên mặt nước, khiến cho nước trở thành một khối duy
nhất. Trong một quốc gia cũng vậy, sự ích kỷ và sự tàn ác làm cho
lòng con người trở nên cứng rắn, làm cho con người ly tán nhau. Phải
dùng đạo đức, tín ngưỡng mới hòa giải, phá tan được sự ích kỷ, và làm
cho mọi người hợp nhất.
III. Hào Từ &
Tiểu Tượng Truyện
1.
Hào Sơ Lục.
初 六
. 用 拯 馬 壯
. 吉 .
象 曰
. 初 六 之 吉
. 順 也 .
Sơ
Lục.
Dụng chửng. Mã tráng.
Cát.
Tượng viết:
Sơ
Lục chi cát. Thuận dã.
Dịch.
Sửa sang,
giúp đỡ liền ngay,
Thêm con ngựa khỏe, mới hay mới lành,
Tượng rằng:
Sơ Lục mà hay,
Là vì khéo xử,
hợp ngay với thời.
Sơ Lục
bắt đầu thời kỳ hoán. Sự ly tán vừa chớm nở, cần phải được ngăn chặn
ngay. Ngăn chặn một cách mạnh mẽ nữa mới tốt. Hào Sơ Lục đây Âm nhu,
không đủ sức cứu vớt được sự ly tan, nhưng may ở gần nhị, nên có thể
dùng sức của nhị để đối phó với tình thế. Vì thế nói rằng Mã
tráng. Cát (Mã tráng đây chỉ Cửu nhị).
Cái hay của Sơ
Lục đây chính là biết thuận thời, thuận thế, hiệp lực với Cửu nhị
(Sơ Lục chi cát. Thuận dã).
2.
Hào Cửu nhị.
九 二
.
渙 奔 其 機
. 悔 亡 .
象 曰
.
渙 奔 其 機
. 得 愿 也 .
Cửu nhị.
Hoán bôn kỳ kỷ. Hối vong.
Tượng viết:
Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc nguyện dã.
Dịch.
Gặp thời
hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ
ở an mới là.
Hết còn phiền trách, âu lo.
Tượng rằng:
Gặp thời hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ
ở an mới là.
Toại lòng, đắc
ý, hết lo.
Cửu nhị
này có hai cách giải:
a). Sống trong
thời kỳ Hoán tán, phải có một lý tưởng để bám víu, lý tưởng đó là niềm
tin nơi con người (Wilhelm)
b). Sống trong
thời kỳ Hoán tán, chia ly, phải biết dựa nương vào người khác. Hào
Cửu nhị đây ở giữa quẻ Khảm, tức là ở giữa cơn nguy hiểm, nên phải
nương tựa vào Sơ Lục, lấy Sơ Lục làm như ghế ngồi (Bôn kỳ kỷ).
Tìm được lý
tưởng để dựa nương, tìm được vây cánh để dựa nương trong thời kỳ phân
ly, hoán tán, thế là được như nguyện vậy (Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc
nguyện dã).
3.
Hào Lục tam.
六 三
.
渙 其 躬
. 無 悔 .
象 曰
.
渙 其 躬
. 志 在 外 也 .
Lục tam.
Hoán kỳ cung. Vô hối.
Tượng viết:
Hoán kỳ cung. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Hoán mà
hoán tán niềm tây,
Thế thời sẽ
khỏi rứt rây, phàn nàn.
Tượng rằng:
Hoán tán niềm tây,
Là vì tâm trí
đã quay ra ngoài.
Một duyên do
sinh ra chia rẽ, đó là lòng vị kỷ. Cho nên, muốn chấm dứt lòng chia
ly, hoán tán, cần phải diệt trừ lòng vị kỷ. Có vậy mới khỏi hối hận,
phàn nàn.
Hoán kỳ cung.
Chí tại ngoại dã.
Hoán kỳ cung tức
là quên mình vì người, bớt nghĩ đến quyền lợi riêng tư, mà lưu ý đến
những điều ích quốc lợi dân bên ngoài.
4.
Hào Lục tứ.
六 四
.
渙 其 群
. 元 吉 . 渙 有 丘
. 匪 夷 所 思 .
象 曰
.
渙 其 群
. 元 吉 . 光 大 也
Lục tứ.
Hoán kỳ quần. Nguyên cát. Hoán hữu khâu. Phỉ
di sở tư.
Tượng viết:
Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã.
Dịch.
Hoán là
hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự
sẽ hay, sẽ lành.
Nhỏ tan, lớn tụ
mới tình,
Thường nhân hồ
dễ nghĩ thành được đâu.
Tượng rằng:
Hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự
sẽ hay, sẽ lành.
Thực là cao
đại, quang minh.
Một tệ đoan xã
hội, khiến cho nhân tâm ly tán, đó là nạn bè phái. Cho nên muốn đoàn
kết quốc dân, trước hết phải dẹp nạn bè phái (Hoán kỳ quần).
Như vậy, mới là vẹn hảo (Nguyên cát). Bè phái có dẹp đi, toàn
dân mới trở thành một khối duy nhất, bao la hơn, vĩ đại hơn (Hoán
hữu khâu).
Công trình này,
người thường đâu có thể hiểu biết được (Phỉ di sở tư). Di là
tầm thường, Tư là suy tưởng.
Dẹp được nạn bè
phái, mang lại sự đoàn kết, nhất trí cho quốc dân, thực là sáng suốt
và cao đại vậy (Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã).
5.
Hào Cửu ngũ.
九 五
.
渙 汗 其 大 號
. 渙 王 居 . 無 咎
.
象 曰
.
渙 王 居 無 咎
. 正 位 也 .
Cửu ngũ.
Hoán hãn kỳ đại hiệu. Hoán vương cư. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán
vương cư vô cữu. Chính vị dã.
Dịch.
Trong thời hoán tán ly tan,
Thế mà mệng
lệnh vẫn ban xa gần.
Trong thời hoán tán phong trần,
Mà vua vững vị,
lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Vua ở chẳng lầm,
Là vì ngôi vị
thập phần hẳn hoi.
Cửu ngũ.
Lúc nhân tâm
ly tán, bậc vương giả cần phải trù liệu được một chương trình hẳn hoi,
hoạch định được những đường lối rõ rệt, ban bố được những mệnh lệnh
chững chạc. Những mệnh lệnh mạnh mẽ, chững chạc của nhà vua, sẽ làm
tiêu tan đi cơn khủng hoảng, như sự phát hãn làm tiêu tan cơn nóng sốt
(Hoán hãn kỳ đại hiệu). Trong thời kỳ hoán tán, điều cần nhất
là nhà vua phải ăn ở cho ngay chính (Hoán vương cư. Vô cữu).
Chu Hi bình
rằng: Trong thời kỳ hoán tán, chẳng những phải ban bố những mệnh lệnh
hẳn hoi, mà còn phải biết tung tiền tài, phát của cải, lúa gạo, để thu
phục nhân tâm nữa (Hoán vương cư vô cữu. Chính vị
dã).
Tượng Truyện
giải Hoán vương cư là nhà vua phải ăn ở cho xứng
đáng. Trình tử cũng theo đó mà bình giải.
6.
Hào Thượng Cửu.
上 九
.
渙 其 血
. 去 逖 出 . 無 咎
.
象 曰
.
渙 其 血
. 遠 害 也 .
Thượng Cửu.
Hoán kỳ huyết. Khứ dịch xuất. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán kỳ huyết. Viễn hại dã.
Dịch.
Đánh tan
cái hại, cái đau,
Dẹp tan những
cái lo âu, hãi hùng.
Tượng rằng:
Hoạ hại đánh
tan,
Những gì hoạ
hại , lầm than chẳng gần.
Thượng Cửu.
Trong
thời kỳ hoán tán, chia ly, phải làm sao tránh được sự tàn sát lẫn
nhau, sự lưu huyết (Hoán kỳ huyết), cũng như đánh tan được mọi
sự hãi hùng (Khử dịch xuất). Như vậy, mới không lỗi (Vô
cữu).
Tượng Truyện tóm
tắt: Phải tránh xa những điều họa hại (Hoán kỳ huyết. Viễn hại
dã).
ÁP DỤNG QUẺ HOÁN VÀO THỜI
ĐẠI
Chúng ta đang ở
trong thời đại nhân tâm ly tán, và mọi người có ai chịu suy nghĩ mà
hàn gắn nó không?
Có
ai chịu suy nghĩ để hiểu rằng: Một người tự khinh mình trước,
rồi kẻ khác mới khinh khi mình. Một nhà tự hủy hoại mình trước, rồi
kẻ khác mới hủy hoại nhà mình. Một nước mà phe này đảng nọ, người này
kẻ khác đánh nhau, rồi nước khác mới thừa dịp đánh nước mình. Trong Thiên Thái Giáp, Kinh Thư có chép: Những tai ách mà Trời làm ra,
mình còn tránh được; những tai ách tự mình gây nên, thì mình phải
chết.
Con người, sinh
ra đời không thể trần trần một nếp, mà phải biết tùy thời, xử thế, tùy
cảnh ngộ mà xuất xử, hành tàng. Tôi mượn lời Đức Khổng mà nói:
Người quân tử ở trên đời không nhất thiết phò cái gì, chống cái gì;
cái gì phải thì theo (Quân tử chi ư thiên hạ dã. Vô thích
dã. Vô mịch dã. Nghĩa chi dĩ tỉ. - LN, IV, 10).
Vậy, chúng ta
hãy áp dụng lời Đức Khổng, trước cho gia đình, sau cho quốc gia, xã
hội.
Trong gia đình,
gặp
lúc thời buổi kinh tế khó khăn, vợ chồng, cha con, phải gạt bỏ hết
những bất đồng ý kiến, những ích kỷ, nhỏ nhen, mà phải hết lòng cộng
tác với nhau, thì gia đình mới có cơ thịnh vượng được.
Trong một quốc
gia,
muốn cho dân mạnh, nước giầu, thì mọi người dân phải cộng tác với
chính quyền, nếu chính quyền làm sai thì ta phải có bổn phận lên
tiếng để sửa sai chính quyền, chớ đừng Mượn
gió bẻ măng, lập bè, kết đảng để mưu cầu lợi ích riêng cho cá
nhân mình, mà quên đi sự nguy hại cho quốc gia dân tộc mình, để
cho ngoại bang lợi dụng nó mà làm suy yếu nước mình.
Tóm lại,
là người dù chỉ có đôi chút học vấn, cũng đừng để những bọn
Hoạt đầu chính trị mang những lời nịnh nọt hão mà tâng bốc
mình, mang những hình ảnh huy hoàng giả tạo lừa bịp mình, để lợi dụng
mình làm cái bàn đạp cho họ, để họ mưu cầu những tư lợi nhỏ nhen của
họ.
Hãy tự tạo cho
mình một tương lai huy hoàng, bằng cách học hành siêng năng, để tạo
cho mình một chỗ đứng vững vàng trong xã hội; trau dồi hạnh kiểm để
xứng đáng làm con người theo đúng nghĩa của nó, năng đọc sách Thánh
hiền để có thể trở thành Thần minh. Tự xét nếu Trên không thẹn
với Trời, dưới không hổ với đất, đó là mình đã thành công ở
đời rồi vậy.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58
59
60 61
62
63 64
|