HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
48.
水 風 井
ThỦy Phong TỈnh
Tỉnh Tự Quái |
井 序 卦 |
Khốn hồ thượng
giả |
困 乎 上 者 |
Tất phản hạ. |
必 反 下 |
Cố thụ chi dĩ
Tỉnh. |
故 受 之
以 井 |
Tỉnh Tự Quái
Cao mà khốn nạn, sẽ thường xuống sâu.
Cho nên Tỉnh tiếp theo sau.
Khi người bị khốn ở
bên trên, sẽ quay xuống phía dưới, cho nên, sau quẻ Khốn là quẻ Tỉnh.
Tỉnh là giếng. Nói đến giếng nước, tức là nói đến cung cấp nước uống cho
dân chúng từ ngàn xưa tới nay.
Thường làng nào
cũng có giếng. Giếng đào sâu xuống cho tới các mạch nước ngầm, nên có
thể cung cấp nước ăn uống cho cả dân làng.
Quẻ Tỉnh, trên là
quẻ Khảm là nước, dưới là quẻ Tốn là gỗ. Xưa người ta dùng gầu tre, gỗ
hoặc những cần cây để múc nước giếng lên. Lại cũng dùng giây thòng gầu
xuống để múc nước lên. Ca dao ta có câu: Tưởng giếng sâu, em nối
sợi dây dài, ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.
I. Thoán.
Thoán từ.
井
. 改 邑 不 改 井 . 無 喪 無 得
. 往 來 井 井 . 汔
至
. 亦 未 繘 井 .
羸 其 瓶 . 凶 .
Tỉnh. Cải ấp bất
cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh.
Ngật chí. Diệc vị
duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
Dịch.
Tỉnh là nước giếng nuôi người,
Rời làng, rời ấp,
chẳng rời giếng đi.
Dùng nhiều, nước
chẳng suy vi,
Không dùng, nước
vẫn cứ y chẳng tràn.
Người qua, kẻ lại
rộn ràng,
Tha hồ đến giếng,
kín mang nước về.
Thòng dây chưa
tới, ích chi?
Giây chưa tới
nước, cách gì múc lên.
Dùng gầu nứt rạn,
chẳng bền,
Dùng gầu nứt rạn,
thảo hèn nào hung.
Thoán từ:
Giếng là 1 cơ
cấu cần thiết nhất trong làng mạc. Xưa, ông Công Lưu, tổ phụ nhà Chu,
muốn lập cơ ngơi ở đất Bân, cũng đã đến nghiên cứu phương hướng, chỗ
nắng, chỗ râm, cùng là nơi có mạch nước chẩy, thế là đào giếng, rồi mới
lập ấp. Vì vậy, sau này dẫu hình dạng làng mạc có đổi thay, kiến trúc
nhà cửa có biến đổi, thời cái giếng vẫn y nguyên cùng tuế nguyệt
(Tỉnh. Cải ấp bất cải Tỉnh). Đã có giếng tốt, thời dầu nhiều người
ăn nước, giếng cũng không hao kiệt, mà thảng hoặc giếng không có ai
dùng, thời giếng cũng không tràn đầy (Vô táng vô đắc)
Giếng chỉ làm việc
của giếng là cung cấp nước ăn, còn ai đến cũng không mời, ai đi cũng
không giữ (Vãng lai tỉnh tỉnh). Nhưng muốn kín nước giếng, phải
có dây đủ dài, có gầu lành lặn mới được. Nếu chưa tới mực nước, mà dây
đã hết, hoặc gầu múc nuớc mà vỡ chẩy, thì cũng chẳng được ích lợi gì
(Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung).
Ngật chí
là chưa tới nơi. Duật là giây để kéo nước.
Luy kỳ bình
là gầu vỡ, gầu chẩy.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰: 巽 乎 水 而 上 水,井﹔井 養 而
不 窮 也。改 邑 不 改 井,乃 以 剛 中 也。汔 至 亦 未 繘
井,未 有 功 也。羸 其 瓶,是 以 凶 也。
Tồn hồ thủy nhi
thượng thủy. Tỉnh. Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã. Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã. Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã. Luy kỳ bình. Thị dĩ hung dã.
Dịch.
Ném gầu vào múc nước lên,
Tỉnh là Tồn dưới, thủy trên rõ rành.
Giếng là nguồn
mạch dưỡng sinh,
Dưỡng nuôi mãi
mãi, công trình dài lâu.
Rời làng, giếng
chẳng rời đâu,
Cương cường,
trung chính, trước sau vững bền.
Hụt dây, nên nước
không lên,
Nghĩa là dang
dở, không nên công trình,
Dùng
gầu rạn nứt, chẳng lành.
Không lành, không
lặn, đã đành là hung.
Thoán Truyện
giải
thích Tỉnh là ném gầu vào nước để múc nước lên. Thoán
viết: Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Thoán Truyện
cũng cho biết đặc tính của giếng là cung cấp nước nuôi dân mãi mãi chẳng
cùng (Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã). Kế đó Thoán Truyện giải thích
Thoán từ: Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung
dã
là thay đổi ấp, mà không thay đổi giếng, vì
giếng là cái gì thiên nhiên, còn làng mạc là cái gì nhân tạo. Cương
trung tức là cái gì lý tưởng, thiên nhiên. Muốn kín nước, phải
giòng dây xuống cho tới mực nước, chưa tới nước thì chưa đi tới đâu
(Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã). Muốn kín nước, mà
gầu lại thủng, lại vỡ, thì thật là hỏng chuyện (Luy kỳ bình. thị dĩ
hung dã).
- Giếng tượng trưng cho cái gì hằng cửu, còn các tổ chức
xã hội khác như làng mạc, thôn xóm, tượng trưng cho cái gì biến thiên. Nơi xã hội, giếng cũng tượng trưng
cho nhân luân. Dẫu hình thức chính trị đổi thay,
dẫu triều đại luân chuyển, nhưng nhân luân sau trước vẫn y nguyên.
-Giếng cũng
tượng trưng cho nguồn sống, cho thiên tính nơi con
người. Đó là tầng lớp sâu xa nhất trong con người. Nếu một tổ
chức xã hội nào, một nền văn minh, giáo dục nào mà sao lãng nguồn sống
ấy, thiên tính ấy, thì chỉ là cơ cấu nhân tạo tạm bợ, không có ích lợi
gì lâu dài; y như đi múc nước giếng, mà dây không đủ dài, gầu không đủ
kín, thời sao múc được nước ăn.
Nói cách khác,
trong cuộc tu thân của chúng ta, điều cốt yếu là phải đạt tới nguồn mạch
siêu nhiên, sống động trong con người. Nếu trạng thái siêu nhiên
ấy chưa đạt được, thời con người chỉ sống trong tình trạng giả tạo, y
thức như người muốn uống nước giếng trong mát, mà dây không đủ
dài, gầu không đủ kín, nên đành phải chịu khát.
Tào
Thăng giải Tỉnh là cái gì bất biến tượng trưng cho
Đạo. Tỉnh cũng tượng trưng cho đời sống chính trị,
cũng y như giếng cần phải có nước luôn luôn, để cung cấp nhu cầu cho
nhân loại.
Vương đạo hay một
nền hành chánh hoàn hảo, cũng là nguồn mạch sống động của đời sống quốc
gia. Không gian, thời gian có thể đổi thay, nhưng một nền cai trị hoàn hảo bao giờ
cũng là lý tưởng của nhân loại.
Tóm lại, Thoán của
quẻ Tỉnh dạy ta hai bài học chính yếu:
1- Phải cố gắng
đạt tới nguồn mạch sống động, siêu nhiên nơi con người, phải đạt tới
Trời, tới Đạo, nơi tầng sâu con người, để thoả mãn nguyện vọng sâu xa,
huyền bí nơi con người.
2- Phải có 1 nền
hành chánh hoàn hảo, để thoả mãn nhu cầu muôn dân.
II. Đại Tượng
Truyện.
象 曰
. 木 上 有 水 . 井 .
君 子 以 勞 民 勸 相 .
Tượng viết:
Mộc
thượng hữu thủy. Tỉnh. Quân tử dĩ lao dân khuyến tướng.
Dịch.
Tượng rằng:
Tỉnh là nước có
trên cây,
Khuyên dân lao
tác, dở hay đỡ đần.
Mới hay quân tử
thương dân,
Nuôi
dân, lại dạy tương thân, tương phù.
Giải là : Trên gỗ,
trên cây có nước là giếng. Người quân tử nhân đó khuyến khích dân lao
tác, và giúp đỡ lẫn nhau. Nói là nước trên gỗ, trên cây, vì xưa dùng
cần cây, dùng gầu mà múc nước lên. Vua chúa xưa đã tổ chức phương pháp
Tỉnh Điền để chúng đân đồng lao, cộng tác với nhau. Phép Tỉnh
Điền được gói ghém trong chữ Tỉnh. Chữ Tỉnh gồm có 9 ô:
-Tám ô chung quanh
là ruộng đất chia cho 8 gia đình, gọi là tư điền. Ô thứ 9, ở giữa có
cái giếng, gọi là công điền. 8 gia đình chung quanh, cùng ăn nước ở cái
giếng chung ấy, lại cùng khai thác thửa ruộng công điền ấy để nộp lợi
tức cho triều đình. Còn phần tư điền bên ngoài, làm được bao nhiêu
thời giữ lấy mà ăn.
Thế là nhờ phép
Tỉnh điền, vua chúa vừa khiến dân lao tác, vừa khuyến khích họ tương
trợ lẫn nhau.
III. Hào từ &
Tiểu Tượng Truyện
Hào từ & Tiểu
Tượng Truyện, nói lên các điều kiện mà một giếng nước cần phải có.
-Nước giếng không
được dơ bẩn (Hào Sơ).
-Giếng không được
nứt rạn, có hang hốc chung quanh (Hào nhị).
-Giếng tốt, nhưng
cần phải được người dùng (Hào 3)
-Giếng cũng có khi
cần sang sửa lại (Hào 4).
-Khi giếng có nước
ngon, cần phải để cho mọi người dùng (Hào 5, 6).
1.
Hào Sơ Lục.
初 六 .
井 泥 不 食
. 舊 井 無 禽 .
象 曰
.
井 泥 不 食
. 下 也 . 舊 井
無 禽 . 時 舍 也 .
Sơ Lục.
Tỉnh nê bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
Tượng Truyện.
Tỉnh
nê bất thực. Hạ dã. Cựu tỉnh vô cầm. Thời xả dã.
Dịch.
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn,
Giếng xưa quạnh
quẽ, biệt tăm chim trời.
Tượng rằng:
Giếng bùn, chẳng
thể uống ăn.
Nghĩa là đáy đục,
chỉ thuần bùn dơ.
Giếng xưa chim
chóc hững hờ,
Người đời ruồng
rẫy, nên ra hoang tàn.
Giếng cần phải
tinh khiết. Nước giếng mà bùn, đục, thời sẽ chẳng ai ăn (Tỉnh nê bất
thực). Chẳng những thế chim muông cũng bỏ rơi, không thèm lai vãng
nữa, (Cựu tỉnh vô cầm).
Tiểu Tượng giải
rằng:
Giếng bùn đục không ai ăn, là vì giếng cạn quá (Tỉnh nê bất thực hạ
đã). Giếng xưa hoang phế, chim muông không còn lai vãng tới nữa, là
vì giếng đã bị người đời bỏ không dùng (Cựu tỉnh vô cầm. thời xã dã). Cũng một lẽ, những người hạ tiện, dơ bẩn, hèn hạ trong xã hội,
cũng sẽ bị đời ruồng bỏ không dùng.
2.
Hào Cửu nhị.
九 二 .
井 谷 射 鮒
. 瓮 敝 漏 .
象 曰 .
井 谷 射 鮒
. 無 與 也 .
Cửu
nhị.
Tỉnh cốc xạ phụ. Ửng tệ lậu.
Tượng viết:
Tỉnh cốc xạ
phụ. Vô dữ dã.
Dịch.
Giếng mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống,
nuôi loài ốc sên.
Giếng mà gáo lại
chẳng bền,
Giếng mà gáo
thủng, nước lên cách nào?
Tượng rằng:
Nước mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống,
nuôi loài ốc sên.
Giếng mà chẳng có
nước lên,
Tại vì chẳng được
bên trên khuông phò.
Hào Cửu nhị:
Một cái
giếng, mà có hang, có hốc chung quanh (Tỉnh cốc), thời nước giếng
sẽ rò rỉ ra bên ngoài (Xạ), bất quá là nuôi được các loài sên,
loài ốc (Phụ), chứ còn nước đâu nữa mà cung cấp cho người. Hoặc
đi kín nước, lại dùng gầu rách, gầu thủng thì làm sao mà có nước? (Ửng
tệ lậu).
Đó là trường hợp
những người có tài, mà vì không có lý tưởng cao đại, chí hướng vững
chắc, nên đã để cho tài năng mình phao phí, mai một. Chẳng những thế,
lại hạ mình theo vật dục, bầu bạn với tiểu nhân, hạ cấp, thì làm sao có
thể làm ích cho đời?. Tiểu tượng bình rằng: Giếng có hang hốc,
nước rò rĩ ra ngoài để nuôi sên ốc, là có ý nói rằng: Không còn
được cấp trên đoái tưởng nữa.
Tượng viết:
Tỉnh cốc xạ
phụ. Vô dữ dã.
Một người thiếu tư
cách, không còn được cấp trên ngó ngàng tới, thì cũng vô dụng như cái
giếng, mà nước rò rỉ hết ra ngoài, hay cái gầu múc nước bể, thủng không
còn kín nước được nữa.
3.
Hào Cửu tam.
九 三 .
井 渫 不 食
. 為 我 民 惻 . 可 用 汲
. 王 明 .
并 受 其 福
.
象 曰 .
井 渫 不 食
. 行 惻 也 . 求 王 明
. 受 福 也 .
Cửu tam.
Tỉnh tiết bất thực. Vi ngã tâm trắc. Khả dụng
cấp.
Vương minh. Tỉnh thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Tỉnh tiết
bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh. Thụ phúc dã.
Dịch.
Giếng trong, mà
chẳng ai ăn,
Làm ta luống những băn khoăn tấc lòng.
Băn khoăn vì nước giếng trong,
Thời nên kín nước mà dùng, mà ăn.
Nếu như có được minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Tượng rằng:
Giếng trong mà chẳng ai ăn,
Bộ hành luống những băn khoăn tấc lòng.
Cầu cho có đấng minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Hào Cửu tam:
Khi đã
có nước giếng tốt, nước đã lắng trong (Tỉnh tiết), mà vẫn bị
người đời quên không dùng (Bất thực); thấy tình cảnh ấy, ai cũng
phải bùi ngùi tấc dạ (Dĩ ngã tâm trắc). Đây là một thứ nước
giếng có thể cung cấp nước ngon (Khả dụng cấp). Nếu gặp được
minh quân dùng, thời cả đôi bên đều được phúc khánh (Vương minh
tịnh thụ kỳ phúc).
Tượng Truyện bàn
thêm rằng:
Nước giếng trong
mát mà không được ăn, nên người bộ hành thấy bùi ngùi tấc dạ, ước mong
gặp được đấng minh quân, có gặp thì cả hai đàng đều được phúc khánh.
Tượng viết:
Tỉnh tiết
bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh thụ phúc dã.
(Tiết là trong; hành là người đi đường) Dương Mưu Trai bình rằng: Nước
ngon có thể ăn là phần của giếng, không ăn nước giếng là quyền của
người. Không được ăn, giếng không than thở, nhưng người đi
đường phải than thở. Đây không phải than thở cho giếng, mà than
thở cho người quân tử có tài, có đức mà không được trọng
dụng. Giếng một khi được dùng , thời cả thôn ấp được phúc. Có
giếng ngon mà không được dùng, thời cũng như không có giếng. Có hiền
nhân mà không có minh vương, thời cũng như không có hiền nhân. Đức
Khổng nói: Không có minh vương ra đời, thời thiên hạ ai là người biết
trọng dụng ta (Lễ ký) (Minh vương bất hưng. Thiên hạ thục năng tông
dư).
Hào Cửu tam tuy
nói về giếng, mà thực ra nói về người quân tử. Nếu không có bậc minh
quân như vua Nghiêu, thời vua Thuấn âu chỉ là một ngư phủ nơi điền
trạch. Nếu không có một minh vương như Cao Tông, thời Phó Duyệt chỉ là
một dung phu nơi núi rừng...
4.
Hào Lục tứ.
六 四 . 井無 咎 .
象 曰 . 井無 咎 . 修 井 也 .
Lục
tứ.
Tỉnh trứu vô cữu.
Tượng viết:
Tỉnh trứu vô cữu.
Tu tỉnh dã.
Dịch.
Giếng xây, sửa lại lỗi chi
Tượng rằng:
Giếng xây, sửa lại lỗi chi.
Sửa
sang cho giếng có bề khang trang.
Hào Lục tứ:
(Trứu là lát
gạch, sang sửa lại phía bên trong giếng). Giếng đôi khi cần ngưng cung
cấp nước, để sửa chữa lại phía bên trong cho hẳn hoi. Như vậy có gì là
đáng trách đâu.
Tượng Truyện giải:
Tỉnh trứu là chữa giếng.
Tượng viết:
Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã. Các công bộc quốc gia, nhiều
khi cũng phải có thời gian để tu bổ lại:
-Tu bổ lại nghề
nghiệp
-Chấn chỉnh lại lề
lối làm việc.
-Tu sửa lại đức
hạnh.
Như vậy, tuy mất
ít ngày không làm ích cho đời, như giếng đang sửa phải ngưng cung cấp
nước, nhưng sau đó sẽ trở nên mới, nên hay, và sẽ giúp ích nhiều hơn.
Sửa giếng cho
giếng trở nên tốt, tức là Nhật tân kỳ đức. Xây giếng cho
hết mọi lỗ hổng tức là Nhàn tà, Tồn thành, là ngăn chặn mọi điều tà ác,
để giữ gìn lấy cái tinh thành. Hào 4 này dạy ta
những bài học tu thân chí lý vậy.
5.
Hào Cửu ngũ.
九 五 .
井 冽 .
寒 泉 食.
象 曰 .
寒 泉 之 食
. 中 正 也 .
Cửu ngũ.
Tỉnh liệt. Hàn tuyền thực.
Tượng viết:
Hàn tuyền
chi thực. Trung chính dã.
Dịch.
Giếng mà trong vắt, trong veo,
Nước tuôn mát lạnh cho nhiều người ăn.
Tượng rằng:
Nước tuôn mát lạnh, người ăn,
Là đem trung
chính trị dân, trị đời.
Hào Cửu ngũ
đây vì Dương cương trung chính, lại ở ngôi trên, nên tài đức đều tận
thiện, tận mỹ. Đối với giếng, thì đó là một giếng nước trong (Tỉnh
liệt), do 1 mạch nước mát mẻ cung cấp (Hàn tuyền), như vậy có
thể dùng để ăn được (Thực). Tượng Truyện bình rằng: Nước
giếng trong mát, có thể ăn được, là chí thiện, là hoàn hảo vậy.
Một giếng nước
chỉ trở nên hữu ích, khi nào được uống, được ăn. Một nhà lãnh đạo
hoàn hảo, chỉ trở nên hữu ích thực sự, khi làm cho dân được theo phương
châm mình, tôn chỉ mình mà hành động. Như vậy,
ích lợi mới trở nên vô tận (Hàn tuyền chi thực. Trung chính
dã).
6.
Hào Thượng Lục.
上 六 .
井 收 勿 幕
. 有 孚 無 吉 .
象 曰
.
元 吉 在 上
. 大 成 也 .
Thượng Lục.
Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu nguyên cát.
Tượng viết:
Nguyên cát
tại thượng. Đại thành dã.
Dịch.
Giếng ngon, người múc tha hồ,
Chẳng nên đậy
điệm, để cho người dùng.
Nước tuôn mãi mãi
chẳng cùng,
Thế là mỹ mãn,
thành công tốt lành.
Hào Thượng Lục:
Giếng
nước ngon, đã được mọi người đến múc (Tỉnh thu) thời hãy để mặc
tình cho đời dùng, chẳng nên đậy nó làm chi (Vật mạc). Nếu cứ
được như vậy mãi, (Hữu phu), sẽ được muôn phần tốt đẹp (Nguyên
cát).
Các quẻ khác, thì
khi nói đến Hào 6, là nói đến biến, đến cực, đến bất dụng. Riêng quẻ
Tỉnh, quẻ Đỉnh thời cung cấp vật thực, nên cái hay nhất là
nước được đem ra dùng, đồ ăn được đem ra ăn. Vì thế Tượng Truyện mới
bình rằng: Quẻ Tỉnh này, Hào trên hết mới thật là hay (Nguyên
cát tại thượng), vì lúc này nói là lúc thành công mỹ mãn.(Đại
thành dã). Xét về phương diện nhân sự, thì người quân tử ở cao
ngôi, làm ích cho đời càng nhiều, càng hay, càng lâu, càng tốt, như vậy
mới là thành công mỹ mãn, như vậy mới là đại thành.
ÁP DỤNG QUẺ TỈNH VÀO THỜI
ĐẠI
Ta phải biết khai
thác những khả năng còn tiềm ẩn trong ta, từ lúc còn ở học đường, nếu có
thể, để giáo sư chú ý đến ta, mà tiến dẫn ta mai sau.
Khi làm việc
trong một hãng xưởng nào, nếu ta thấy ta có tài gì đặc biệt, mà chưa
được cấp trên biết tới, thì ta phải tìm cách thi thố tài năng đó, bằng
cách nhờ người đề bạt, hay tự mình đề bạt lên cấp trên. Không nên ù lì,
nhút nhát, chịu yên phận một chỗ, để mai một tài năng mình. Một khi
đã lên cao rồi, thì phải hết sức mang tài ra, mà làm những công việc ích
nước, lợi dân. Phải luôn luôn học hỏi nghiên cứu, để tiến thêm, chớ
đừng tự mãn, cho thế là đủ, rồi đâm ra lười biếng, quay ra hưởng lạc,
thì uổng phí tài năng. Và như vậy, thì cũng như giếng tốt mà không có
người dùng.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|