HẠ KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
50.
火 風 鼎
HỎa Phong ĐỈnh
Đỉnh Tự
Quái
|
鼎 序 卦
|
Cách
vật giả mạc nhược Đỉnh.
|
革 物 者 莫 茹 鼎 |
Cố thụ chi dĩ
Đỉnh.
|
故 受 之 以
|
Đỉnh Tự Quái
Đổi thay mọi vật, Đỉnh nay nhất rồi.
Cho nên, Đỉnh mới tiếp ngôi.
Sau quẻ Cách,
tiếp đến quẻ Đỉnh. Cách là thay đổi cái cũ, Đỉnh là gây dựng cái
mới. Từ thời Đại Võ, Đỉnh là tượng trưng cho sự bền vững của quốc
gia. Vì thế Đại Võ đã đúc chín đỉnh. Đến đời Thành Vương nhà Chu, để
cửu đỉnh ở Giáp Nhạc. Bói thấy nhà Chu làm vua được 30 đời, và làm
700 năm. Đến năm 23 đời Chu Liệt Vương, Cửu đỉnh tự nhiên giao động,
đó là điềm nhà Chu bất an vậy. Đến sau, quả nhiên Tần Thủy Hoàng diệt
nhà Chu và đoạt cửu đỉnh.
Quẻ Đỉnh gợi
hình ảnh cái Đỉnh.
- Hào Sơ là
chân đỉnh
- Hào 2, 3, 4,
là lòng đỉnh (để đựng đồ ăn).
- Hào 5 là tai
đỉnh.
- Hào 6 là
khoen đỉnh
Đỉnh dùng để
đựng đồ ăn, trong những dịp tế lễ, yến ẩm, vì thế đỉnh còn gợi lên ý
nghĩa dưỡng hiền. Với tất cả ý nghĩa và hình ảnh trên, quẻ Đỉnh
bàn về mấy vấn đề chính yếu sau đây:
1. Sau cuộc
Cách mạng, cần phải kiến thiết quốc gia, xây dựng một đời sống mới cho
dân.
2. Muốn xây
dựng một đời sống mới cho dân, nhà vua cần phải anh minh,
phải biết trọng dụng nhân tài.
I. Thoán.
Thoán từ.
鼎 . 元 吉 .
亨
Đỉnh. Nguyên cát. Hanh.
Dịch.
Đỉnh dùng nấu
nướng, dưỡng nuôi,
Thành toàn tốt đẹp, êm xuôi mọi bề.
Sau cuộc cách mạng, nếu an định được quốc gia, kiến
thiết được quốc gia, mới thực là tốt lành. (Đỉnh. Nguyên cát).
Như vậy, đời sống quốc gia sẽ được thông suốt (Hanh).
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰
.
鼎 .
象 也 . 以 木 巽 火
. 亨 飪 也 . 聖
人 亨 以 享
上 帝
. 而 大 亨 以 養 聖 賢
.
巽 而 耳 目 聰 明
. 柔 進 而 上 行 . 得 中
而 應 乎 剛
. 是 以 元 亨 .
Đỉnh. Tượng dã. Dĩ mộc tốn hỏa. Phanh nhậm dã. Thánh nhân
phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền. Tốn nhi nhĩ mục thông minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung
nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh.
Dịch. Thoán
rằng:
Đỉnh dùng nấu
nướng nuôi thân.
Củi đun, lửa
nấu, đồ ăn chín mùi.
Thánh nhân dùng
vạc tế trời,
Cỗ bàn, yến ẩm
dưỡng nuôi Thánh hiền.
Khiêm cung, tai
mắt sáng thêm,
Nhu từ phía
dưới, tiến lên trên dần.
Xứng ngôi, lại
được hiền thần,
Cho nên mới được
mọi phần hanh thông.
Thoán Truyện cho rằng: Đỉnh chính là hình ảnh cái đỉnh, cái vạc
(Đỉnh tượng dã). Quẻ Đỉnh, trên là Ly, là Hỏa; dưới là Tốn, là
gỗ, là cho vào. Vì thế quẻ Đỉnh gợi lên ý nghĩa chụm củi để đốt lửa,
để nấu nướng (Dĩ mộc tốn hỏa phanh nhậm dã). Thánh nhân dùng
vạc nấu đồ ăn để:
1. Tế lễ Thượng
Đế.
2. Khoản đãi Thánh hiền. (Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi
đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền.) Thượng Đế cần lòng, không cần của
lễ, nên dùng chữ Phanh, Hiền Thánh cần được thù tiếp, nuôi
dưỡng cho trịnh trọng, nên dùng chữ Đại phanh.
Muốn
cho nước nhà hưng vượng, công trình kiến thiết được hanh thông, nhà
vua cần phải minh mẫn, thông tuệ, từ tốn (Tốn nhi nhĩ mục thông
minh), mềm dẻo mà tiến bước, ăn ở cho phải đạo, lại được hiền thần
giúp đỡ (Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị
dĩ nguyên hanh).
Xưa
nay, biết bao nhiêu người có thể lật đổ một chế độ, nhưng đến
lúc lên cầm vận mệnh quốc gia, thời không biết lèo lái con thuyền quốc
gia ra sao, không biết phải làm gì nữa. Thế là
chỉ biết Cách cố, mà không biết Đỉnh tân. Như vậy chỉ
tổ làm loạn dân, loạn nước mà thôi. Cái bí quyết thành công trong
chương trình kiến thiết quốc gia là nhà vua phải là vị anh quân, hơn
nữa là phải biết dùng hiền tài phụ bật.
III. Đại Tượng Truyện.
象 曰
.
木 上 有 火
. 鼎 . 君 子 以 正 位 凝 命
.
Tượng
viết:
Mộc thượng hữu hỏa. Đỉnh. Quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh.
Dịch. Tượng rằng:
Đỉnh là gỗ có
lửa trên,
Hiền nhân chính vị làm nên cuộc đời.
Vị cho cao trọng, mới thôi,
Hoàng trung chính vị, mệnh trời mới ngưng.
Các lời giải thích về Đại Tượng quẻ Đỉnh này rất
khác nhau. Người thì giải Mệnh là Mệnh
lệnh, người thì giải Mệnh là Mệnh Trời
(Chu Hi). Ta chỉ chọn hai cách Dịch, và hai cách Bình.
A. Dịch.
1. Theo Nho: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải xếp đặt
vị thứ cho hẳn hoi, xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh. (Tống Bản Thập
Tam Kinh).
2. Theo Lão:
Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải tìm ra địa vị chính đáng của
mình, thực hiện cho được định mạng của mình.
B. Bình
1. Bình theo Nho:
Khi cuộc Cách mạng đã xong, một cục diện mới đã sinh, thời phải lo
chính vị an mệnh. Chính
vị là phân tôn ti, cho xã hội có trên, có dưới, phân minh.
Ngưng mệnh là xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh, xác định đường
lối cho rõ ràng, để mọi người cứ đấy mà theo (Tống Bản Thập Tam
Kinh). Ví dụ như khi Nasser đã lật đổ Farouk, và lên làm Tổng Thống
Ai Cập, liền vạch ra 6 mục tiêu:
1. Phản đế.
2. Đả phong.
3. Bãi bỏ các
độc quyền.
4. Thành lập
một quân đội mạnh mẽ.
5. Thành
lập một chế độ xã hội công bằng.
6. Thành
lập một thể chế dân chủ lành mạnh.
Hoặc Tôn Dật
Tiên, sau khi lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, đã lập nên Trung Hoa Dân
Quốc với:
*Chủ
nghĩa tam dân:
- Dân tộc. Dân sinh. Dân quyền.
* Ngũ Quyền:
- Lập pháp. Hành chánh. Tư pháp. Khảo thí. Giám sát vv...
2. Bình
theo Lão. Hiền nhân, quân tử, phải biết lấy cái
hữu hình là hoàn cảnh xác thân, tâm tình để dưỡng nuôi cái vô hình là
tâm linh. Biến cái hữu thể thành vô thể, vượt tầm kích con người lên
tới địa vị thần minh, đó mới là chính vị, là ngôi vị chính đáng của
mình, mới là thực hiện được định mệnh cao sang của mình. (Lưu nhất
Minh, Chu Dịch Xiển Chân)
III. Hào
từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào
Sơ Lục.
初 六
.
鼎 顛 趾
. 利 出 否 . 得 妾 以 其 子
. 無 咎 .
象 曰
.
鼎 顛 趾
. 未 悖 也 . 利 出 否
. 以 從 貴 也 .
Sơ Lục.
Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ. Đắc thiếp
dĩ kỳ tử. Vô cữu.
Tượng viết:
Đỉnh điên
chỉ. Vị bội dã. Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng qui dã.
Dịch.
Đỉnh mà chân
chổng lên trời,
Lợi là bụi bậm sẽ rơi ra ngoài.
Cát đằng chút phận nhỏ nhoi,
Nếu mà sinh được mụn trai, lỗi gì.
Tượng rằng:
Đỉnh tuy chân chổng lên
trời,
Cũng chưa đến nỗi là sai, là lầm.
Lợi là bụi bậm sạch không,
Rồi ra có thể theo dòng thanh tao.
Hào Sơ Lục: Như ta đã thấy, quẻ Đỉnh nói về trọng dụng hiền
tài, để kiến thiết quốc gia. Hào Sơ này đại ý
nói: Dụng nhân như dụng mộc. Người dở mà biết
dùng cũng hóa hay, chẳng khác nào Đỉnh chổng chân, giúp ta vét được
bụi bậm bám trong lòng đỉnh (Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ), hoặc
như có vợ lẽ cũng có thể sinh quí tử cho chồng (Đắc thiếp dĩ kỳ
tử). Tóm lại, biết dùng thời dở cũng hóa hay, cho nên không gì
đáng trách (Vô cữu).
Nên,
thấy người dùng kẻ dở, vị tất đã là người quấy, cũng như thấy Đỉnh
chổng chân lên trời, vị tất đã là điều nghịch lý (Đỉnh điên chỉ. Vị
bội dã). Điều phải xét, là người được dùng có làm nên việc hay
chăng, cũng như xét xem Đỉnh chổng chân, có phải là để vét bụi ra
không? Cái quí là ở chỗ hợp thời, hợp cảnh.(Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng
quí dã).
2. Hào
Cửu nhị.
九 二
.
鼎 有 實
. 我 仇 有 疾 . 不 我 能 即
. 吉 .
象 曰
.
鼎 有 實
. 慎 所 之 也 . 我 仇 有 疾
. 終
無 尤 也
.
Cửu nhị.
Đỉnh hữu thực. Ngã cừu hữu tật. Bất
ngã năng tức. Cát.
Tượng viết:
Đỉnh hữu thực. Thận sở chi dã. Ngã cừu hữu tật. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Vạc đầy ăm ắp
thức ăn,
Ta đây có kẻ để tâm giận hờn.
Giận ta, nhưng chẳng dám nhờn,
Chẳng điều gần gũi, bờm sơm tốt rồi.
Tượng rằng: Vạc có thức ăn,
Đường đi nước bước, để tâm lo lường,
Với ta có kẻ chẳng thương,
Nhưng mà họ chẳng có đường trách ta.
Hào Cửu nhị: Quân tử ra giúp đời, gánh vác trách nhiệm xây dựng
đất nước, cũng như cái Đỉnh có nhiều đồ ăn (Đỉnh hữu thực). Khi
Đỉnh có chức, có quyền, thường bị tiểu nhân ghen ghét, tật đố
(Ngã cừu hữu tật). Ngã cừu nghĩa là thù oán với ta, Hữu tật
nghĩa là có lòng ghen ghét. Trong trường hợp này, ta phải lập
nghiêm, đừng cho họ bén mảng đến gần (Bất ngã năng tức), được
vậy sẽ tốt lành (Cát). Tức đây nghĩa là đến gần. Mới hay,
những người có tài, có đức, y như Đỉnh đầy đồ ăn (Đỉnh hữu thực),
có lo chi không được đời trọng dụng. Tuy nhiên, cũng phải cẩn
trọng trong đường đi, nước bước của mình (Thận sở chi dã). Như
vậy, nếu thù địch mình có ghen ghét mình (Ngã cừu hữu tật),
cuối cùng cũng chẳng làm gì được mình (Chung vô vưu dã).
3.
Hào Cửu tam.
九 三
.
鼎 耳 革
. 其 行 塞 . 雉 膏 不 食
. 方 雨 虧 悔 . 終 吉
.
象 曰
.
鼎 耳 革
. 失 其 義 也 .
Củu tam.
Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực.
Phương vũ khuy hối. Chung cát.
Tượng viết:
Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã.
Dịch.
Vạc mà
đang đổi thay tai,
Thế là bế tắc, khó rời chân đi.
Quí như mỡ trĩ
còn chê,
Mưa rơi, mới
hết ủ ê, phàn nàn.
Cuối cùng, cũng
sẽ chu toàn,
Rồi ra cũng sẽ
được an, được lành.
Tượng rằng:
Vạc đổi thay tai,
Thế là nghĩa lý, mất rồi còn đâu.
Cửu tam tượng trưng một người anh hùng hữu tài, hữu đức, mà chưa
đạt thời, đạt vận, chưa được bậc quân vương biết đến, như vậy có khác
nào một chiếc đỉnh đựng đầy của ngon, vật lạ như mỡ trĩ, mà vì đỉnh
đang thay tai, không thể khiêng đi được, nên chẳng được ai ăn (Đỉnh
nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực). Nhưng chẳng lẽ Tử Nha
cứ ngồi câu nơi sông Vị mãi, chẳng sớm chày âu cũng gặp Văn Vương, và
chung cuộc sẽ tốt lành (Phương vũ khuy hối. Chung cát).
Tượng viết: Đỉnh nhĩ cách.
Thất kỳ nghĩa dã. Cho nên, nếu ta
có tài, thì phải tin rằng:
Thân hệ bang gia chung hữu dụng.
Thiên sinh hào kiệt mạc ưng hư
(Cao Bá Quát, Cuộc Phong trần)
4.
Hào Cửu tứ.
九 四
.
鼎 折 足
. 覆 公 餗 .
其 形 渥 . 凶.
象 曰
. 覆
公 餗 . 信 如
何 也 .
Cửu tứ.
Đỉnh triết túc. Phúc công
tốc. Kỳ hình ốc. Hung.
Tượng viết:
Phúc công tốc. Tín như hà dã.
Dịch.
Đỉnh mà gẫy rụi
cả chân,
Lung tung, đổ hết thức ăn ông Hoàng.
Tía tai, đỏ mặt, bẽ bàng.
Rồi ra âu sẽ nhỡ nhàng, rủi ro.
Tượng rằng:
Đổ đồ ăn uống ông Hoàng,
Thế thời tin cậy được làm sao đây.
Cửu tứ
tượng trưng một người không đủ tài đức, mà phải gánh một
trách nhiệm quá sức mình, nên làm hỏng hết công việc đã được giao
phó. Y như cái đỉnh đã bị gẫy chân (Đỉnh triết túc), làm đổ
hết thức ăn của vua chúa ra ngoài (Phúc công tốc). Như vậy
đáng thẹn thay (Kỳ hình ốc. Hung). Tượng viết: Phúc công
tốc. Tín như hà dã. Đã đánh đổ thức ăn của vua chúa, thì làm sao
còn tin được nữa.
5. Hào
Lục ngũ.
六 五
.
鼎 黃 耳
. 金 鉉 . 利 貞 .
象 曰
.
鼎 黃 耳
. 中 以 為 實 也 .
Lục ngũ.
Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền . Lợi
trinh.
Tượng viết:
Đỉnh hoàng nhĩ. Trung dĩ vi thực dã.
Dịch.
Quai vàng, khoen
cũng bằng vàng,
Sao cho minh chính, vững vàng, thời hay.
Tượng rằng: Đỉnh có quai vàng,
Chính trung, lòng vẫn tiềm tàng, chắt chiu.
Lục ngũ
tượng trưng cho quai đỉnh. Đỉnh không quai, thời không di chuyển được,
thành thử có thức ăn, cũng chẳng được dùng, như ta đã thấy trong Hào
Ba. Như vậy, đỉnh nhờ có quai mới trở nên linh động. (Đỉnh hoàng
nhĩ. Kim huyền. Lợi trinh). Cũng một lẽ, đấng quân vương mà biết
cầu hiền, sẽ làm cho đời sống chính trị trong nước trở
nên linh động. Vua thời như quai đỉnh (Hoàng nhĩ),
hiền thần thời như khoen đỉnh (Kim huyền), đôi đàng hợp tác với
nhau, để mưu đại công, đại sự. Đỉnh có tai vàng (Đỉnh hoàng nhĩ),
cũng như nước có vua tốt. Vua tốt chính vì đã biết xử theo lẽ phải
(Trung dĩ vi thực dã).
6.
Hào Thượng
Cửu.
上 九
.
鼎 玉 鉉
. 大 吉 . 無 不 利
.
象 曰
.
玉 鉉 在 上
. 剛 柔 節 也 .
Thượng Cửu.
Đỉnh ngọc huyền. Đại cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã.
Dịch.
Đỉnh đồng, khoen
ngọc quá xinh,
Bề nào cũng tốt, cũng lành, cũng hay.
Tượng rằng: Khoen ngọc bên trên,
Cương nhu tiết tấu, ấm êm, hiệp hòa.
Thượng Cửu: Hiền tài trong nước ví như khoen đỉnh
(Đỉnh ngọc huyền). Đỉnh có tai, nhưng phải có khoen nữa, mới có
thể di chuyển được. Nước có minh quân, nhưng phải có hiền thần phụ
bật, thời mới làm nên công chuyện, thời mới hay, mới tốt
(Đại cát. Vô bất lợi). Tượng viết: Ngọc huyền tại thượng.
Cương nhu tiết dã. Hiền tài như là khoen ngọc bổ túc cho
đỉnh trở nên hoàn mỹ. Khoen ngọc thì vừa cương, vừa nhu, trúng tiết. Hiền tài cũng quí ở chỗ biết dung hoà cả cương lẫn nhu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỈNH VÀO THỜI
ĐẠI
Quẻ Đỉnh tiếp sau
quẻ Cách. Người xưa nói: Cách cố, đỉnh tân. Nghĩa là
thay cũ, đổi mới. Ta lấy ví dụ những việc chính quyền Cộng Sản đã làm
từ năm 1946 trở đi.
Trước hết là Cách cố là Thay cũ. Họ đã thay những cái
gì mà họ cho là hủ bại, thối nát. Khẩu hiệu đưa ra là Bài phong,
đả thực (Bài trừ phong kiến, đả đảo thực dân), mà bài trừ phong
kiến là đánh phá các giai cấp Trí, Phú, Địa, Hào (Đánh trí thức, người
giầu, điền chủ, cường Hào, ác bá). Còn Đỉnh Tân là xây
dựng chủ nghĩa Cộng Sản. Đó là truất bỏ tư điền, tư hữu, nhân dân sẽ
lao tác (lao động là vinh quang), không được sống xa xỉ, hưởng thụ,
còn Đảng sẽ nắm mọi quyền hành như buôn bán, kinh doanh, nắm trọn
quyền chính trị vv...
Đảng Cộng Sản
được xây dựng lên từ học thuyết Mác Lê (Karl Mark và Lénine). Và
Cộng Sản đã tung hoành từ 1917 cho đến 1989 mới xụp đổ. Hiện nay
chỉ còn 4 nước theo Cộng Sản. Đó là Cuba, Trung Hoa, Việt nam,
và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên ở những nước này Cộng Sản đã biến
dạng, không còn cứng rắn như xưa.
Quẻ
Đỉnh còn dạy người cầm quyền phải biết Dụng nhân như dụng mộc,
nghĩa là phải biết dùng người. Ai ai cũng có cái hay, cái
dở. Cái khéo là biết dùng họ cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng nơi. Sinh
ra đời, ta không nên cố chấp. Chế độ nào cũng có cái hay,
cái dở. Cái dở là những gì hủ lậu, lỗi thời, làm cho con người khổ sở
và không thể tiến lên được. Chúng ta cần phải biết gạn đục, khơi trong, giữ cái hay, bỏ cái dở, chính là vì vậy. Những người cầm quyền
còn phải biết nhìn xa, trông rộng, để theo kịp đà tiến hóa của thế
giới. Phải biết nhận những lỗi lầm của mình, phải biết sửa sai,
chớ đừng thần thánh hóa mình và coi dân như cỏ rác, mới mong dân cộng
tác với mình. Phải thương dân, lo cho dân được no ấm, và dạy
dân tiến hóa về mọi mặt : Tinh thần, Vật chất, và đạo đức,
như vậy mới mong sự nghiệp được vững vàng.
Nước Pháp năm
1789 đã lật chế độ Quân chủ độc tài, đã đề cao Tự Do, Bình quyền và
Huynh đệ. Abraham Lincoln (1861-1864), đã hủy bỏ chế độ nô lệ
tại Mỹ. Đó là những bước tiến khả quan của nhân loại. Nhờ
vậy, mà nay người ta không còn đánh giá con người theo mầu da, sắc áo,
mà bằng phẩm giá con người.
Càng đi sâu vào
lẽ Dịch, ta càng thấy mọi sự đều biến thiên, tiến hóa để đi dần đến
những gì là tốt lành, đẹp đẽ. Trong đời ta, ta đã chứng kiến máy
bay, tầu hỏa, tầu thủy, điện khí, xe hơi, ta đã thấy những nhà chọc
trời, những đường hầm đáy biển, tất cả đều nói lên rằng chúng ta sinh
ra đời này cốt là để biến thiên, tiến hóa, để càng ngày càng đi vào
chỗ hoàn mỹ, thành toàn.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ
31 32
33 34
35 36
37 38
39
40 41
42 43
44
45
46
47
48 49
50 51
52
53 54
55 56
57
58 59
60 61
62
63 64
|