TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
II: TRUNG DUNG
BÌNH DỊCH
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31 32
33
Chương 1
THIÊN ĐẠO TẠI NHÂN TÂM
第 一 章
天 命 之 謂 性.
率 性 之 謂 道,
修 道 之 謂 教.
道 也 者 不 可 須 臾 離 也.
是 故 君 子 戒 慎 乎 其 所 不 睹,
恐 懼 乎 其 所 不 聞.
莫 見 乎 隱,
莫 顯 乎 微.
故 君 子 慎 其 獨 也.
喜 怒 哀 樂 之 未 發 謂 之 中,
發 而 皆 中 節 謂 之 和.
中 也 者
,天
下 之 大 本 也.
和 也 者,
天 下 之 達 道 也.
致 中 和,
天 地 位 焉,
萬 物 育 焉.
PHIÊN ÂM
Thiên mệnh chi vi tính. Suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo. Đạo dã
giả bất khả tu du ly dã. Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ, khủng
cụ hồ kỳ sở bất văn. Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi. Cố quân tử thận kỳ
độc dã. Hỉ, nộ, ai, lạc chi vị phát vị chi trung, phát nhi giai trúng
tiết vị chi hòa. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã. Hòa dã giả,
thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục
yên.
CHÚ THÍCH
-
Tính
性
= (1)
Thiên tính
天 性
, (2)
Thiên lý
天 理
, (3)
Thiên mệnh
天 命
, (4)
Thiên đạo
天 道
.
- Nhân
chi tính, tức thiên tính, diệc tức tự nhiên chi lý; như vi phản tự nhiên
chi lý, vi hồ nhân đạo, phản hồ nhân tính, kỳ nhân tất bại, kỳ quốc tất
vong.
人 之 性,
即 天 性,
亦 即 自 然 之 理;
如 違 反 自 然 之 理,
違 乎 人 道,
反 乎 人 性,
其 人 必 敗,
其 國 必 亡
. (Trung
Dung kim thích, tr.5)
- Thiên
tính, thiên mệnh dữ thiên đạo, bản nhất quán đích.
天 性,
天 命,
與 天 道,
本 一 貫 的.
(Trung Dung kim thích, tr.5)
-
Tính
性
= (1) Trung
衷
(Kinh Thư, Thang cáo), (2) Di
彝
(Kinh
Thi,
chưng dân), (3) Minh đức
明 德
(Đại
học), (4) Thành
誠
= Hoàn thiện.
-
Suất
率
= Thuận ứng
順 應
= theo.
-
Suất tính
率 性
= thuận
ứng thiên lý
順 應 天 理
= thuận
theo lẽ trời. (Trung Dung kim thích, tr.4)
-
Tu du
須 臾
= giây
phút
1. Chu Tử
viết: Hỉ nộ ai lạc, tình dã. Kỳ vị phát tắc tính dã. Vô sở thiên ỷ, cố
vị chi trung. Phát giai trung tiết, tình chi chính dã, vô sở quai lệ, cố
vị chi hòa. Đại bản giả: Thiên mệnh chi vị tính. Thiên hạ chi lý, giai
do thử xuất, đạo chi thể dã. Đạt đạo giả tuần tính chi vị. Thiên hạ cổ
kim chi sở cộng do. Đạo chi dụng dã.
朱 子 曰:
喜 怒 哀 樂,
情 也.
其 未 發 則 性 也.
無 所 偏 倚 故 謂 之 中.
發 皆 中 節,
情 之 正 也,
無 所 乖 戾,
故 謂 之 和.
大 本 者:
天 命 之 謂 性.
天 下 之 理,
皆 由 此 出,
道 之 體 也.達
道 者 循 性 之 謂.
天 下 古 今 之 所 共 由.
道 之 用 也.
(Chu Hi nói: mừng, vui, buồn, giận
là tình. Khi chưa phát động là tính; tính không nghiêng lệch, chếch mác,
nên gọi là Trung. Phát ra trúng tiết, tức là tình cảm chân chính: tình
cảm không có chi ngang trái, nên gọi là Hòa. Căn bản chung tức là thiên
mệnh là Tính. Nó phát sinh công lý thiên hạ và là cốt đạo. Đạt đạo là
theo đúng tính Trời. Cổ kim đều theo đường ấy.)
2. Tử Tư
đem vũ trụ quan làm khuôn mẫu cho nhân sinh quan. Trời đất vận hành
‘trúng, tiết’, điều hòa, con người cũng phải theo đường đạo lý, để
mọi hành vi hợp với công lý, lý tưởng.
3. Khang
Hi ngự án viết: «Chu Tử gọi Vô cực là Thái cực nghĩa là lấy cái bản thể
của Âm Dương mà nói. Trung Dung gọi là Thiên mệnh, là Tính. Thiệu Tử gọi
là Vô cực, lấy khu nũu của sự động tĩnh mà nói. Trung Dung gọi là
‘cái ở trong tâm chưa phát ra’.
Tóm lại
Trung là Thái cực là nguyên lý, Hòa là Thái cực, là cùng đích. Thái cực,
từ trung tâm phát huy ra, tiết tấu theo đúng chiều âm dương, rồi lại trở
vào thế Trung hòa nguyên thủy. Sách Kim Bích cổ văn gọi Trung
điểm là ‘Trung cung thổ đức nãi mậu kỷ chí hòa chi khí’. (Lời bàn
của dịch giả)
-
Phát
發
= hiển dương; Vị phát
未 發
= Chưa
hiển dương; Phát
發
= (dĩ phát
已 發
) = đã
hiển dương.
a. Theo
Tống Nho: Vị phát
未 發
= nguyên
lý chưa hiển dương (l’état du principe avant qu’il agisse); Phát
發
(dĩ phát
已 發
) =
Nguyên lý hoạt động (l’état du principe dans ses actions)
b. Theo
Vương Dương Minh: Vị phát
未 發
= Nguyên
lý (lương tri) (le Principe considéré en lui-même); Phát
發
(dĩ phát
已 發
) =
Nguyên lý hoạt động (le principe en tant qu’agissant) cf. Wang Tch’ang
Tche, La philosophie morale de Wang Yang Ming, p.211.
DỊCH CHƯƠNG 1
Nhận
được chân bản tính mình, kính sợ Trời tiềm ẩn đáy lòng mình là theo
thiên đạo, Là tiến tới thế Trung hòa muôn thủa.
Bản
tính cũng chính là thiên mệnh,
Đạo là
noi theo tính bản nhiên.
Giáo
là cách giữ đạo nên,
Đạo
trời giây phút vẫn liền với ta.
Rời ta
được đâu là đạo nữa.
Thế cho
nên quân tử giữ gìn,
E dè
cái mắt không nhìn.
Tai
nghe không nổi cho nên hãi hùng.
Càng
ẩn áo lại càng hiện rõ,
Càng
siêu vi càng tỏ sáng nhiều.
Nên dù
chiếc bóng tịch liêu,
Đã là
quân tử chẳng xiêu lòng vàng
Khi
chưa phát vui thương mừng giận,
Gọi là
Trung vì chẳng ngả nghiêng.
Phát
ra đúng tiết, hợp duyên,
Ấy là
hòa tấu ấm êm nhạc trời
Trung
ấy chính là muôn đời căn bản,
Hòa
kia là đạo quán thiên thu.
Ước gì
đạt thế trung hòa.
Ấm êm
trời đất, nhởn nhơ muôn loài.
BÌNH LUẬN
Chương
này là chương quan trọng nhất và toát lược đại ý toàn sách. ta cần bàn
giải cho kỹ càng.
A. Thiên mệnh chi vị tính
I. Chữ Mệnh
Chữ Thiên
mệnh có nhiều cách bình giải:
a. Thiên mệnh là thiên tính
Nhiều
triết gia chủ trương thiên mệnh là thiên tính.
Bắc Khê
Trần Thị nói: «Tính và mệnh không phải là hai, ở nơi Trời thì gọi là
mệnh, ở nơi người thì gọi là tính.» Lại nói: «Tính mệnh chỉ là một đạo
lý mà thôi.»
Trung
Dung Hoặc Vấn
viết: «Ở nơi người, nơi Trời tuy có phân
thành tính mệnh, nhưng mà vẫn là một nguyên lý.»
Trương Tử
nói: «Cái mà trời cho người thì gọi là mệnh; cái mà người nhận được nơi
Trời thì gọi là tính.»
Ngô Thảo
Lư viết: «Tính hay mệnh hay Thái Cực cũng là một.»
Quan niệm
này là nền tảng cho những học thuyết chủ trương con người thông phần bản
tính Trời.
Quan niệm này giúp ta hiểu được những đại học thuyết ở Á Châu về tương
quan giữa Trời người như:
- Thiên
nhân tương dữ
- Thiên
nhân nhất quán
- Thiên
nhân hợp phát
- Thánh
nhân phối thiên, v.v.
b. Thiên mệnh là mệnh lệnh của Trời
Chu Hi
giải thích Thiên mệnh là mệnh lệnh của Trời.
Theo quan điểm này, câu ‘Thiên mệnh chi vị tính’ phải hiểu là:
‘Cái mà Trời truyền ta phải thực hiện là tính.’
Nhưng Tính ở đây dĩ nhiên
không phải là tính tình thông thường, mà là Thiên Tính hàm cụ vạn lý,
hoàn thiện tuyệt hảo.
Thế tức
là Trời truyền ta phải phải thực hiện được tính Trời, thể hiện tuyệt
đối. Quan niệm này này tương đương như quan niệm của các nhà huyền học
Ấn Độ, vì các ngài cũng chủ trương Tat tvam Asi (Con là cái đó = Con là
tuyệt đối thể).
c. Thiên mệnh là định mệnh con người
Theo quan
điểm này, Trời đã giành cho con người một định mệnh cao sang là thực
hiện Thiện tính, tiến tới tuyệt đối.
Quan điểm
này làm ta liên tưởng đến Kant, vì Kant cũng chủ trương:
Định
mệnh con người là khao khát vươn lên cho tới tuyệt đối.
Kant còn
cho rằng trong con người có một nguyên lý thúc đẩy con người vươn lên
cho tới một trạng thái cao siêu hơn, khác hẳn hiện trạng về phẩm, và nhờ
vậy, con người mới thực hiện được định mệnh thực sự của mình.
Kant gọi
nguyên lý ấy bằng nhiều danh hiệu, như là: siêu hình, hoàn thiện,
toàn thể, toàn bích, tự thể, chân ý, thánh mệnh (thiên mệnh), v.v.
II. Chữ Tính
Chữ Tính
trong Trung Dung phải hiểu là Thiên Tính, hàm cụ vạn lý,
hoàn thiện,
theo như quan niệm của Mạnh Tử.
Trong
Từ Nguyên có chữ Tính Thiên, và giải: «Tính Thiên hay Thiên Tính
chính là tính bản nhiên hoàn thiện mà con người đã được Trời phú cho.
Tống Nho hằng dùng chữ này.»
Âm Phù
Kinh
viết:
«Thiên Tính nhân dã, nhân tâm cơ dã. Lập thiên chi đạo dĩ định nhân dã.»
天 性 人 也,
人 心 機 也.
立 天 之 道 以 定 人 也
(Thiên
tính là người. Nhân tâm là máy. Lập ra thiên đạo, để định thế nào là con
người.)
Xét chung
lại, câu ‘Thiên mệnh chi vị Tính’ ta thấy rằng thực sự Trung Dung
đã chủ trương con người thông phần bản tính Trời. Công phu tu luyện, học
hỏi mà Trung Dung đã chỉ vẽ ra, chỉ cốt là để thực hiện Thiên Tính ấy.
B. Suất Tính chi vị đạo
Vì trong
con người có Thiên Tính nên con người có bổn phận phải thuận theo Tính
ấy, tuân theo Tính ấy, lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc, làm khuôn mẫu
để nương theo mà cải thiện tâm tính cho tới chỗ hoàn thiện. Đó là đạo mà
Trời muốn ta theo.
Suất Tính
là theo Tính. Đã có theo, thì phải có dẫn; nếu đã có một cái theo chân,
thì phải có một cái hướng đạo.
Tính là
hướng đạo; đó là Thiên Tính.
Tâm theo
chân; đó là nhân tâm hay phàm tâm.
Đại Học
dạy ta phải chính tâm, tức là phải sửa tâm hồn cho ngay chính. Trung
Dung dạy suất Tính, tức là muốn sửa tâm hồn cho ngay chính thì phải
thuận theo Thiên Tính, thiên lý.
Phân tích
Tâm và Tính như vậy chẳng những giúp ta hiểu Trung Dung mà còn giúp ta
hiểu rõ thánh thư các tôn giáo khác.
Đối chiếu với các từ ngữ Phúc Âm chẳng hạn thì:
- Tính là
Thiên nhân (homme spirituel, l’image du céleste), hay Thiên thể (corps
spirituel).
- Tâm là phàm
nhân, phàm thể (l’homme psychique, l’image du terrestre, hay corps
psychique).
Đối chiếu với các từ ngữ Phật giáo thì:
- Tính là
Phật, là Phật Tính.
- Tâm là
chúng sinh, là vọng tâm, v.v.
Đối với từ ngữ của quần chúng thì:
- Tính là
lương tâm.
- Tâm là
tâm hồn, là lòng dạ, v.v.
C. Tu đạo chi vị giáo
Các lời
giáo hóa của thánh hiền xưa nay là làm cho mọi người hiểu biết thế nào
là đạo Trời, thế nào là Tâm là Tính; dạy cho con người biết đường lối
giữ trọn đạo Trời, tìm ra những phương châm bất hủ như:
- Chính
tâm, suất Tính.
- Khử
nhân dục, tồn thiên lý.
- Tư vô
tà.
- Kỷ sở
bất dục vật thi ư nhân, v.v.
Tóm lại
những câu ‘Thiên mệnh chi vị Tính, suất Tính chi vị đạo, tu đạo chi
vị giáo’ có thể hiểu một cách nôm na mộc mạc như sau:
Trời đã
phú bẩn cho con người bản tính hoàn thiện. bản tính này vừa là bản tính
con người, vừa là căn cơ, gốc gác sin đạo đức nhân luân. Trời truyền ta
phải theo tính ấy, thực hiện tính ấy, để tiến tới hoàn thiện. Đó là bổn
phận con người. Thánh hiền chỉ muốn dạy con người tìm ra được bản tính
hoàn thiện ấy, và biết phương pháp thực hiện bản tính ấy.
D. Đạo dã giả bất khả tu du ly dã
Câu này
có thể hiểu hai cách: (1) Luật Trời chẳng lìa xa người; (2) Trời chẳng
xa người.
1.
Luật Trời chẳng hề lìa xa con người,
vì nó đã được ghi tạc trong thâm tâm con người.
Đó là
nguyên lý đã được cổ nhân khám phá từ lâu. Trung Dung chỉ nhắc lại.
Kinh
Thi
viết: «Phạt kha, phạt kha, kỳ tắc bất viễn.»
伐 柯 伐 柯 其 則 不 遠
(Đẽo rìu, đẽo rìu, mẫu mực chẳng xa.)
Kinh
Thi
lại viết: «Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc. Dân chi bỉnh di, hiếu
thị ý đức.»
天 生 蒸 民 有 物 有 則 民 之 秉 彝 好 是 懿 德
.
«Trời
sinh ra khắp muôn dân,
Vật nào
phép nấy, định phân rành rành.
Lòng
dân chứa sẵn căn lành,
Nên ưa
những cái tinh thành đẹp tươi.»
Khổng Tử
khi đọc tới câu Kinh Thi này đã phải khen tác giả bài thơ là
người hiểu đạo.
Thánh kinh
Công giáo đã nhiều lần long trọng xác nhận rằng luật Trời đã ghi tạc
trong thâm tâm con người. Trong Deutéronome, khi truyền mười giới
răn cho dân Do Thái, Thiên Chúa phán: «Thực vậy, lề luật mà ta truyền
dạy ngươi hôm nay, không có ở ngoài tầm kích ngươi. Nó không có ở trên
trời để ngươi phải nói: ‘Ai lên trời cho chúng tôi để tìm luật đó, để
chúng tôi được nghe biết và thi hành.’ Nó cũng chẳng ở cách trùng
dương để ngươi phải nói: ‘Ai sẽ vượt biển cả cho chúng tôi để tìm
luật đó, để chúng tôi được nghe biết và thi hành.’ Đạo kế bên ngươi,
Đạo ở trong miệng, trong lòng ngươi để ngươi có thể đem thực hiện.»
Jérémie
viết lại lời Thiên Chúa: «Ta để luật ta trong tầng sâu bản thể chúng, và
sẽ viết luật ta trong đáy lòng chúng.»
Về phía các triết
gia, ta thấy Emmanuel Kant (1724-1804) viết: «Bầu trời đầy sao trên đầu
ta, và định luật luân lý trong lòng ta, đó là hai điều càng ngày càng
làm cho tâm hồn ta phải thêm kính phục.»
Johann
Gottfried von Herder (1744-1803), một văn gia Đức, cũng chủ trương đại
khái rằng khuôn mẫu hoàn thiện chẳng lìa xa con người, đã ghi tạc trong
thâm tâm con người. Mẫu người hoàn thiện đã có sẵn
trong thâm tâm con người.
2.
Trời chẳng xa người
Hơn thế
nữa, Trời cũng chẳng lìa xa con người, và đã lồng ngay trong tâm khảm
con người. Trung Dung đã dùng cả chương 16 để chứng minh điều ấy. Ta sẽ
trở lại vấn đề khi bình chương 16. Đó là niềm tin tưởng của thánh hiền
Trung Hoa từ xưa và đã được ghi trong Kinh Thi:
«Chái
Tây Bắc góc nhà thanh vắng,
Đừng
làm chi đáng để hổ ngươi.
Đừng
rằng tăm tối chơi vơi,
Đừng
rằng tăm tối ai người thấy ta.
Thần
giáng lâm ai mà hay biết,
Nên
dám đâu khinh miệt
dễ
ngươi.»
Kinh
Thi
cũng viết trong Đại nhã: «Không hiển hiện mà vẫn giáng lâm.»
Có thế
mới hiểu vì sao Trung Dung viết: «Cho nên người quân tử e dè đối với cái
mình không trông thấy, sợ hãi với cái mình không nghe thấy.»
Các nhà
bình giải Trung Dung cũng đã có người hiểu được điều ẩn áo ấy. Trong
Trung Dung Hoặc Vấn ta thấy viết: «Người quân tử xưa lúc đứng thấy
như Ngài ở trước mặt, lúc đi xe, thấy như Ngài tựa trên thành xe.»
Thiệu Tử
viết: «Thần có một và ở khắp nơi, thì cái thần của
mình tức là cái thần của trời đất. Vậy nên người quân tử phải thận độc,
nghĩa là phải kính cẩn lúc một mình, không lừa dối mình bao giờ.»
Đức Khổng
cảm thấy Trời ở trong lòng mình, nên lúc nguy khốn ở đất Khuông, mới
xưng mình là vẻ sáng của Thượng Đế, như Văn Vương xưa.
Các bậc
đại nho ý hẳn cũng đã lĩnh hội được điều cao nhiệm ấy. Bằng chứng là
ngay ở Việt Nam, cụ Nguyễn Đình Chiểu, một vị thạc nho, đã viết trong
Ngư Tiều vấn đáp y thuật:
«Có Trời thầm dụ trong lòng,
Tuy ngồi một chỗ, suốt thông trăm đời.»
(tr.372)
«Vậy thà theo lẽ an phần,
Trăm năm chờ mạng trong thân có Trời.»
(tr.208)
«Lấy lòng tạo hóa
làm lòng,
Vậy cho người thế khó trông
thấy
hình.»
(tr.330)
Kinh Thư
viết: «Duy thiên thông minh.»
Sách Nhật giảng quảng luận câu ấy như sau: «Trời trên tầng cao
thăm thẳm, thật chí hư, chí công, chí thần, chí linh. Không cần nghe mà
thông biết mọi sự, không cần nhìn mà thấy mọi điều. Chẳng những công
cuộc hưng vong của các chính thể, vận hội thịnh suy của các dân tộc
không thoát được sự chứng giám của Ngài, mà ngay muốn điều xảy ra trong
những căn phòng tối tăm hẻo lánh, mắt thế nhân không dòm hành tới được,
thì Trời vẫn thông suốt không sót một mảy may. Ấy Trời thông minh là
vậy.»
Suy ra thì nhận thức được rằng trong tâm có Trời là điều kiện tiên quyết
để trở nên thánh hiền. Bất kỳ một đại thánh, đại tiên nào cũng đều quả
quyết như vậy.
Hán Chung Ly và
Lữ Động Tân hỏi Tào Quốc Cữu: «Ông tu luyện ra sao?» Tào Quốc Cữu
nói: «Lòng mộ đạo thì lánh trần chứ không có phép chi hết.» Hai
tiên hỏi: «Đạo ở đâu mà mộ?» Tào Quốc Cữu chỉ trời. Hai tiên hỏi:
«Trời ở đâu?» Tào Quốc Cữu chỉ cái tim,. Hán Chung Ly cười rằng:
«Lòng là Trời, Trời là Đạo, đã biết cội rễ, tu chắc thành tiên.»
Ramakrishna viết: «Bao
lâu bạn cảm thấy Thượng Đế xa bạn thì bấy lâu bạn còn u tối. Nhưng nếu
bạn nhận chân rằng Thượng Đế ở trong bạn, thì bạn đã đạt được sự khôn
ngoan thật.»
Sách
Gương Phúc viết: «Bao giờ cũng có Thiên Chúa hiện diện trong mình,
và không còn ước mơ gì bên ngoài, đó là trạng thái của con người nội
tâm.»
Thánh
Thérèse d’Avila viết: «Thật là một ân sủng lớn khi Thiên Chúa giúp ta
tìm ra Ngài trong lòng ta.»
E. Thị cố quân tử giới thận hồ ... thận kỳ độc dã
Trời đã
hiện diện trong tâm, thì còn gì mà có thể che khuất mắt Ngài. Cổ nhân đã
nói:
«Nhân
gian tư ngữ Thiên văn như lôi,
Ám
thất khuy tâm, Thần mục như điện.»
Nếu vậy thì người quân tử sợ hãi, e dè là phải. Sợ hãi, e dè vì tuy tai
mắt mình không nghe, không nhìn thấy, nhưng mà Trời vẫn hiển hiện trong
tâm, vì các điều bí ẩn trong lòng mình đều phơi bày trước mắt Ngài, như
núi Thái Sơn trước ánh dương quang. Cho nên người quân tử phải thận
trọng khi ở một mình, luôn phải ăn ở cho hợp thiên lý. Con người đạo
hạnh phải luôn soát xét tâm hồn mình, đừng để cho tà dục làm hoen ố, và
chỉ không buồn, không sợ, nếu xét thấy lòng mình không có lỗi lầm gì.
Ramakrishna viết:
«Con người đạo hạnh thực sự là người không phạm tội khi ở một mình, vì
biết rằng Trời thấy mình, mặc dầu không ai thấy mình. Người có thể chống
trả lại được sự cám dỗ của một thiếu nữ trẻ đẹp trong khu vườn hoang
vắng, khi không ai trông thấy mà chỉ sợ rằng Trời thấy, nên không dám để
mắt thèm muốn thiếu nữ ấy, đó là người đạo hạnh thực sự. Người thấy một
túi đầy vàng trong một ngôi nhà hẻo lánh, mà chống trả được sự cám dỗ,
không chiếm đoạt túi vàng, ấy là người đạo hạnh.»
F. Hỉ nộ ai lạc chi vị phát ... vạn vật dục yên
Trên kia Trung Dung đã luận về Tính, bản thể con người và là cơ cấu nhân
luân, nay lại bàn về hai phương diện động tĩnh của Tính ấy.
Bản tính con người khi chưa vận dụng phát huy, thì hoàn toàn thiện mỹ,
đến khi biến thiên phát xuất thì gọi là tình. Nếu phát xuất biến thiên
theo đúng tiết tấu, thì gọi là hòa.
Nếu ta lấy Trời làm căn bản tâm hồn mình, quyết theo những định luật
Trời đã ghi tạc trong thâm tâm mình, nhất tâm tu luyện cho đến mức hoàn
thiện, rồi ra sống một cuộc đời khinh khoát luôn hợp tình hợp lý, hợp
thời, hợp cảnh để cuối cùng đạt tới mức hoàn thiện, thế là tìm ra được
gốc lớn của thiên hạ, và thực hiện đạo cao siêu nhất trong thiên hạ. Nếu
mọi người đều thực hiện được đời sống lý tưởng như vậy, âu hẳn nhân loại
sẽ sống một thời đại hoàng kim, vạn vật và vũ trụ cũng sẽ có một thời
đại hoàng kim...
Trung Dung
muốn dạy cho con người có một đời sống đạo hạnh thực sự, lý tưởng thực
sự, để giúp đất trời trong công cuộc hóa sinh, đem lại cho vũ trụ sự
thái hòa mong mỏi. Chủ trương này cũng giống như chủ trương của Herbert
Spencer gần đây. Spencer chủ trương: Vạn vật tiến hóa. Sư tiến hóa của
vạn hữu là do sự chuyển động không ngừng của bản thể vũ trụ. Sự chuyển
động này làm cho bản thể ấy đi dần dà từ những trạng thái không hoàn bị,
đến những trạng thái hoàn bị, để cuối cùng đạt tới thế trung hòa, nhờ sự
hoàn thiện và hạnh phúc của toàn thể.
Cho nên điều hay là điều mang lại cho ta và cho người thêm sống động,
hạnh phúc và bổn phận mọi người là phải trở nên những người cộng tác
minh tri và hữu hiệu vào cuộc tiến hóa tâm thần.
CHÚ THÍCH CỦA CHU HI
右 第 一 章
.子
思 述 所 傳 之 意,
以 立 言.
首 明 道 之 本 原 出 於 天,
而 不 可 易,
其 實 體 備 於 己,
而 不 可 離,
次 言 存 養 省 察 之 要.
終 言 聖 神 功 化 之 極.
蓋 欲 學 者 於 此,
反 求 諸 身 而 自 得 之.
以 去 夫 外 誘 之 私
,而
充 其 本 然 之 善.
楊 氏 所 謂 一 章 之 體 要 是 也.
其 下 十 章,
蓋 子 思 引 夫 子 之 言,
以 終 此 章 之 義
.
PHIÊN ÂM
Hữu đệ nhất
chương. Tử tư thuật sở truyền chi ý, dĩ lập ngôn. Thủ minh đạo chi bản
nguyên xuất ư thiên, nhi bất khả dịch, kỳ thực thể bị ư kỷ, nhi bất khả
ly, thứ ngôn ‘tồn, dưỡng, tỉnh, sát’ chi yếu. Chung ngôn
‘thánh thần công hóa’ chi cực. Cái dục học giả ư thử, phản cầu chư
thân nhi tự đắc chi, dĩ khử phù ngoại dụ chi tư, nhi sung kỳ bản nhiên
chi thiện. Dương Thị
sở vị nhất thiên chi thể yếu thị dã. Kỳ hạ thập chương, cái Tử Tư dẫn
Phu Tử chi ngôn, dĩ chung thử chương chi nghĩa.
Chú thích của Chu Hi
Tử Tư
nương ý chân truyền,
Trung
Dung hạ bút nói liền nguyên do:
Nguồn
đạo ấy phát từ Thượng Đế,
Chẳng
đổi thay, chẳng thể biến rời.
Hoàn
toàn đầy đủ nơi người,
Một
giây một phút chẳng rời khỏi ta.
Rồi
bàn tiếp chi là cần thiết,
Lẽ
‘Dưỡng, Tồn, Tỉnh, Sát’ vân vân...
Cuối
cùng tác giả luận bàn,
Sức
thiêng ‘Biến hóa thánh thần’ uy linh.
Những
học giả muốn tìm đạo ấy,
Tìm
đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp
tan cám dỗ bên ngoài,
Căn
lành sẵn có, đồng thời khuếch sung.
Theo ý
kiến họ Dương bàn định,
Chương
đầu này là chính chốt then.
Mười
chương sau Tử Tư biên,
Dẫn
lời Đức Khổng bàn thêm cho tường.
BÌNH LUẬN
Chu Hi
tóm chương đầu như sau:
1.
Đạo Trung Dung phát xuất từ Trời, và
đã ghi tạc trong thâm tâm con người nên không thể biến dịch. (Từ
«Thiên mệnh chi...» đến «Khả ly phi đạo dã»)
2. Muốn
theo đạo Trời phải biết tồn tâm dưỡng tánh, nội quan, nội tỉnh. (Từ
«Thị cố quân tử...» đến «Thận kỳ độc dã»)
3. Lúc
đạt đạo sẽ lên tới mức cao siêu, biến hóa muôn ngàn, hóa dục vạn vật.
(Từ «Hỉ nộ ai lạc...» đến «Vạn vật dục yên»)
Chu Hi
cho rằng muốn tìm đạo ấy phải tìm nơi đáy lòng mình, rũ bỏ mọi điều cám
dỗ bên ngoài, để phát huy nguồn mạch thánh thiện nơi lòng mình.
Xem thế
vì Trung Dung chủ trương một nền nhân văn thiên bản (Humanisme
théocratique, ou théocentrique), một nền đạo hạnh thuần túy, nội tại
giữa mình với Trời, một nền đạo hạnh sáng suốt cao siêu, vì đòi hỏi một
sự suy tư, và minh triết rất sâu sắc.
Tóm lại,
Trung Dung muốn dẫn dắt con người lên bậc thánh hiền thật sự.
CHÚ THÍCH
Cận Tư Lục, I, tr.2.
Trung Dung, văn ngôn đối chiếu, tr.3.
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31 32
33
|