TRUNG DUNG TÂN KHẢO

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

QUYỂN II: TRUNG DUNG BÌNH DỊCH

» Mục lục » Tựa của Chu Hi » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13

14  15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30  31  32  33


Chương 2

TRUNG DUNG LÀ ĐẠO CỦA QUÂN TỬ

第 二 章

仲 尼 曰: 君 子 中 庸; 小 人 反 中 庸. 君 子 之 中 庸 也, 君 子 而 時 中;小 人 之 中 庸 也, 小 人 而 無 忌 憚 也.

PHIÊN ÂM

Trọng Ni viết: «Quân tử Trung Dung; tiểu nhân phản Trung Dung. Quân Tử chi Trung Dung dã, quân tử nhi thời trung; tiểu nhân chi phản Trung Dung dã, tiểu nhân nhi vô kỵ đạn dã.»

CHÚ THÍCH

1. Từ thời Khổng tử về trước, người quân tử là người có địa vị cao, hào hoa phú quí. Trái lại, Khổng tử gọi người đạo đức, đức hạnh là người quân tử. Con người tiểu nhân là người vô đạo bất lương. (Khổng Tử dĩ tiền sở xưng đích quân tử, thị chỉ tại thượng vị, đãn phú quí đích nhân. Khổng Tử tắc dĩ xưng hữu đạo đức đích nhân. Hòa bất đạo đức, đích tiểu nhân tương đối trĩ. (Trung Dung văn ngôn đối chiếu, tr.3)

2. Quân tử theo được đạo Trung hòa, Tiểu nhân thì không. Quân tử lúc nào tình ý cũng trúng tiết hợp lẽ, còn tiểu nhân thì không còn biết kiêng dè e nể cái gì vì lương tâm đã táng tận. (Trung Dung văn ngôn đối chiếu, tr.4)

DỊCH CHƯƠNG 2

Thiên đạo: lối đường quân tử

Đức Khổng nói:

Người quân tử Trung Dung một đạo,

Kẻ tiểu nhân trở tráo Trung Dung.[1]

Trung Dung quân tử thời thường,

Phản Trung Dung ấy là phường tiểu nhân.

Tiểu nhân chẳng thẹn chẳng cần,

Chẳng còn sợ hãi, lần khân tháng ngày.[2]

BÌNH LUẬN

Từ thời Khổng Tử về trước, người quân tử là người có địa vị cao, hào hoa phú quý. Trái lại, Khổng Tử gọi người đức hạnh là người quân tử còn người tiểu nhân là kẻ vô đạo, bất lương.[3]

Quân tử và tiểu nhân là một đề tài rất quan trọng trong Nho giáo, và được Tứ Thư đề cập nhiều lần. Trần Trọng Kim đã bình luận rất nhiều về quân tử và tiểu nhân trong Nho giáo, quyển I, tr.105-117.

Ta tóm tắt:

a. Quân tử

- Biết mục đích sang cả của đời mình.[4]

- Có hoài bão cao đẹp, luôn luôn hướng thượng.[5]

- Cố tu đạo, theo đạo.[6]

- Đi theo nhân nghĩa, không ham danh lợi.[7]

- Lo hoàn thiện mình.[8]

- Sáng suốt, ham học, thức thời.[9]

- Nói ít, làm nhiều.[10]

- Thương yêu mọi người.[11]

- Lúc nào cũng ung dung thư thái.[12]

- Lúc nguy cơ vẫn bình tĩnh.[13]

Tóm lại người quân tử luôn trau dồi tâm thần,[14] «ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ, đứng thì đứng vào địa vị chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn của thiên hạ, đắc chí thì cùng với nhân dân noi theo đạo nghĩa, không đắc chí thì một mình thực hành đạo nghĩa. Giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo hèn không thay đổi lòng, vũ lực không khuất phục được chí lớn. Như thế mới là đại trượng phu.» [15]

Đó là người quân tử mà Vương Dương Minh đã phác họa như sau: «Người quân tử lấy trung tín làm lợi, lấy lễ nghĩa làm phúc. Nếu trung tín lễ nghĩa mà không còn, thì tuy lộc có muôn chung, tước đến vương hầu, cái quý ấy người quân tử vẫn cho là họa với hại.» [16]

Đó là người quân tử mà Kinh Thi đã khen bằng những vần thơ:

«Kìa xem bên khuỷu sông Kỳ,

Tre non mới mọc xanh rì vườn ai.

Người sao văn vẻ hỡi người,

Dường như cắt đánh dũa mài bấy nay.

Lẫm liệt thay, rực rỡ thay,

Hỡi người quân tử biết ngày nào quên.» [17]

b. Tiểu nhân

Tiểu nhân thì trái lại:

- Lý tưởng của họ là lợi và dục,[18] mặc tình cho vật dục và ngoại cảnh khiên dẫn, không kể đến việc sa đọa.[19]

- Tiểu nhân chỉ cần bề ngoài, cần hư danh, miễn sao che mắt thế gian được là đủ, còn trong dạ xấu xa gian ác thế nào thì chẳng sao.[20]

- Họ thường hợm hĩnh kiêu căng, nhưng lòng dạ chẳng bao giờ được an vui.[21]

- Họ thích a dua bè đảng.[22]

- Họ sẵn sàng hại người để đạt ý mình.[23]

Tóm lại, tiểu nhân chỉ lo trau giồi những phần thấp kém trong người, vì thế gọi là tiểu nhân.[24] Họ hoàn toàn phóng ngoại, hoàn toàn xao lãng phần tâm thần, và đi theo con đường bất nhân.[25]

Ta có thể mượn lời Ramakrishna để kết thúc phần bình luận quân tử và tiểu nhân: «Con người sinh ra mang theo hai khuynh hướng: một là giác, khuynh hướng này thúc đẩy họ đi tìm con đường giải thoát; hai là , khuynh hướng này thúc đẩy họ lăn vào đời sống trần hoàn và nô lệ. Lúc mới sinh ra thì hai khuynh hướng cân bằng như hai đĩa cân. Thế rồi trần tục đặt lên một đĩa cân những thú vui thế tạm. Còn bên đĩa cân kia Trời đặt lên những hứa hẹn người. Nếu đĩa cân nghiêng về hướng mê, thì con người sẽ chọn trần tục và sẽ bị luôi cuốn về vật chất thế tục; nếu con người chọn tinh thần thì đĩa cân giác ngộ sẽ nâng họ lên tới Thượng Đế.» [26]

Thời Trung

Có thể hiểu theo hai cách:

1. Người quân tử không bao giờ rời bỏ lý tưởng hoàn thiện.

2. Người quân tử tỏ ra biết thích ứng với hoàn cảnh.

Muốn hiểu chữ thời trung cho phải, thiết tưởng phải phân biệt tiến hóa (évolution)thích ứng (adaptation). Phân biệt thế, ta thấy ngay rằng người quân tử không bao giờ được dừng bước trên con đường tiến hóa, nhưng cũng phải luôn luôn thích ứng với hoàn cảnh.

Nói cách khác, có kinh nhưng cũng có quyền. Những kẻ khư khư cứng cỏi, cố chấp một chiều là những người thấp kém.

Người theo đạo Trung Dung tuy không bao giờ rời bỏ lý tưởng hoàn thiện, nhưng bao giờ cũng tỏ ra thích thời, lúc đáng làm sao thì làm vậy, hết sức linh động uyển chuyển. Nghĩa là làm việc gì, làm trường hợp nào, cũng cư xử cho hết sức hẳn hoi, tốt đẹp, không thẹn với người, với lương tâm, với trời đất.

Đức Khổng đã tỏ ra hết sức linh động, luôn cư xử đúng với hoàn cảnh. «Khi ra khỏi nước Tề, gạo vừa vo xong chưa kịp nấu chín, thế mà ngài tiếp lấy và vội vã ra đi. Khi ra khỏi nước Lỗ, ngài rằng: ‘Ta đi chầm chậm vậy thôi ! Đó là buộc lòng rời đất nước của cha mẹ vậy. Lúc cần đi gấp thì ngài đi gấp. Lúc cần ở lâu thì ngài ở lâu. Khi nên lui về ẩn thì ngài lui về ẩn. Khi nên ra làm quan thì ngài ra làm quan. Đó là phong độ của đức Khổng vậy.» ... Vì thế mà Mạnh Tử gọi Khổng Tử là ‘Thánh chi thời dã.» [27]

Thế là «tùy thời biến dịch nhi tòng đạo dã».

Chữ thời có nhiều nghĩa:

- Thời gian thông thường, hoặc thời tiết (temps sidéral et temps climatérique).

- Thời thế (temps historique).

- Tuổi tác (temps biologique).

- Thời gian tâm lý (temps psychologique).

tất cả hành động của mình phải lo sao cho hợp với mọi thứ thời gian đó.


CHÚ THÍCH

Danh ngôn đối chiếu:

[1] Khổng tử viết đạo nhị: nhân dữ bất nhân nhi dĩ hĩ. (Mạnh Tử, Ly Lâu [thượng-2])

Les deux voies:

Heureux est l’homme, celui-là

qui ne va pas au conseil des impies,

Ni dans la voie des égarés ne s’arrête,

Ni au banc des rieurs ne s’assied,

Mais se plaît dans la loi de Yahve,

Mais murmure sa loi jour et nuit !

(Psaume 1-1,2; La Bible de Jérusalem, p.654)

[2] L’insensé dit en son cœur:

Plus de Dieu ! Corrompues, abdominables leurs notions...

(Psaume 14-13, 1; La Bible de Jérusalem, p.663)

[3] Trung Dung văn ngôn đối chiếu, tr.3.

[4] Luận Ngữ, Nghiêu viết (ch.20), 3. (ghi dấu 3 là câu 3)

[5] Luận Ngữ, Hiến vấn (ch.14), 24.

[6] Luận Ngữ, Lý nhân (ch.4), 9.

[7] Luận Ngữ, Lý nhân (ch.4), 16; Vệ Linh Công (ch.15), 17, 20. Trung Dung, ch.11.

[8] Luận Ngữ, Vệ Linh Công, 17, 20. Trung Dung, ch.14, 20.

[9] Luận Ngữ, Ung dã (ch.6), 25; Lý nhân, 10. Trung Dung, ch.20.

[10] Luận Ngữ, Lý nhân (ch.4), 22.

[11] Luận Ngữ, Nhan Uyên (ch.12), 15.

[12] Luận Ngữ, Thuật nhi (ch.7), 36.

[13] Luận Ngữ, Vệ Linh Công (ch.15), 1.

[14] Manh Tử, Cáo Tử, thượng-15.

[15] Mạnh Tử, Đằng Văn Công, hạ-2.

[16] Tạp chí Quê Hương, số 5, tháng 11-1959, tr.9.

[17] Tản Đà dịch, Kinh Thi, tr.168. - Đại Học, ch.3. - Kinh Thi, Vệ nhất chi ngũ, Kỳ úc.

[18] Quân Tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi. (LN, Lý nhân, 16)

[19] Tiểu nhân hạ đạt. (Luận Ngữ, Hiến vấn, ch.14)

[20] Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công, ch.14, 20)

[21] Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái. (Luận Ngữ, Tử Lộ, ch.13,26)

[22] Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa. (Luận Ngữ, Tử Lộ, ch.13,23)

[23] Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị. (Luận Ngữ, Nhan Uyên, ch.12, 15). - Tiểu nhân chi sử vi quốc gia, tai hại tịnh chí. (Đại Học, ch.10)

[24] Mạnh Tử, Cáo Tử, thượng-15.

[25] Khổng Tử viết: Đạo nhị nhân dữ bất nhân nhi dĩ hĩ. (Mạnh Tử, Ly Lâu, thượng-2)

[26] L’Enseignement de Ramakrishna, p.5,6.

L’homme en naissant apporte deux tendances avec lui dans ce monde: l’une (vidya = sagesse) qui le pousse à chercher le chemin de sa libération, l’autre (avidya = ignorance) qui l’entraîne vers la vie terrestre et vers l’escalavage. A la naissance, ces deux tendances sont en équilibre comme les deux plateaux d’une balance. Bientôt le monde pose d’un côté ses plaisirs et ses jouissances. Sur l’autre plateau, l’esprit pose alors l’attirance de ses promesses. La balance s’incline du côté d’avidya si l’homme choisit le monde et il se trouve entraýné vers la terre; mais s’il fait l’élection de l’esprit, le plateau de vidya l’élèvera jusqu’à Dieu...

- Thể hữu quý tiện, hữu tiểu đại. Vô dĩ tiểu hại đại. Vô dĩ tiện hại quý. Dưỡng kỳ tiểu vi tiểu nhân. Dưỡng kỳ đại vi đại nhân. 體 有 貴 賤, 有 小 大. 無 以 小 害 大, 無 以 賤 害 貴. 養 其 小 者 為 小 人. 養 其 大 者 為 大 人. Mạnh Tử, Cáo Tử, thượng-1.

[27] Mạnh Tử, Vạn Chương, hạ-1: Khổng Tử chi khứ Tề, tiếp tích nhi hành. Khứ Lỗ viết: Trì trì ngô hành dã. Khứ phụ mẫu quốc chi đạo dã. Khả dĩ tốc nhi tốc; khả dĩ cửu nhi cửu; khả dĩ xử nhi xử; khả dĩ sĩ nhi sĩ. Khổng Tử dã. 孔 子 之 去 齊, 接 浙 而 行. 去 魯 曰: 遲 遲 吾 行 也. 去 父 母 國 之 道 也. 可 以 速 而 速;可 以 久 而 久;可 以 處 而 處;可 以 仕 而 仕 孔 子 也.

- Luận Ngữ, Hương đảng (ch.10),18: Sắc tư cử hĩ, tường nhi hậu tập. Viết: Sơn lương thư trĩ, thời tai! Tử Lộ củng chi, tam khứu nhi tác. 色 斯 舉 矣, 翔 而 厚 集 曰: 山 梁 雌 雉 時 哉 子 路 拱 之 三 嗅 而.

- Luận Ngữ, Thái Bá (ch.8),14: Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư. Thiên hạ hữu đạo tắc hiện; vô đạo tắc ẩn. 作 危 邦 不 入, 亂 邦 不 居 天 下 有 道 則 現; 無 道 則 隱.

- Luận Ngữ, Vệ Linh Công (ch.15), 6: Bang hữu đạo tắc sĩ; bang vô đạo tắc khả quyển nhi hoài chi. 邦 有 道 則 仕;邦 無 道 則 可 卷 而 懷 之.


» Mục lục » Tựa của Chu Hi » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13

14  15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30  31  32  33