TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
II: TRUNG DUNG
BÌNH DỊCH
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11 12
13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
33
Chương 32
THÁNH NHÂN
LÀ BẬC ĐẠI TRÍ VÀ HOÀN HẢO
第 三 十 二 章
唯
天 下 至 誠,
為 能 經 綸 天 下 之 大 經,
立 天下 之 大 本,
知 天 地 之 化 育,
夫 焉 有 所 倚?
肫 肫 其 仁;
淵 淵 其 淵;
浩 浩 其 天.
苟 不 固 聰 明 聖 知,
達 天 德 者,
其 孰 能 知 之?
PHIÊN ÂM
Duy thiên
hạ chí thành, vi năng kinh luân thiên hạ chi đại kinh, lập thiên hạ chi
đại bản, tri thiên địa chi hóa dục, phù yên hữu sở ỷ ? Chuân chuân kỳ
nhân; uyên uyên kỳ uyên; hạo hạo kỳ thiên. Cẩu bất cố thông minh thánh
trí, đạt thiên đức giả, kỳ thục năng tri chi ?
CHÚ THÍCH
-
Kinh luân
經
綸
= sửa sang. - Kinh
經
= luật lệ. - Kinh
經
= gỡ tơ. - Luân
綸
= xắp tơ. - Ỷ
倚
= dựa.
-
Chuân chuân
肫
肫
= khẩn thiết. - Uyên
uyên
淵
淵
= sâu xa. - Hạo hạo
浩
浩
= man mác.
DỊCH CHƯƠNG 32
Thánh nhân là bậc đại
trí và hoàn hảo
Chỉ những đấng chí thánh trong thiên
hạ,
Mới có thể vì đời sang sửa đại kinh.
Mới có thể xây căn bản cho xã hội quần
sinh,
Mới thấu rõ luật đất trời sinh hóa.
Những bậc ấy hết cần nương tựa,
Đức nhân ngài tuyệt thế.
Trí tuệ ngài thâm uyên.
Tâm hồn ngài mang nhiên.
Nên trừ phi bậc thông minh thánh trí,
Trừ những ai đạt mức trời tuyệt mỹ,
Ai là người hiểu nổi được khúc nhôi.
BÌNH LUẬN
1. Duy thiên hạ chí thành ... tri
thiên địa chi hóa dục.
Các nhà bình dịch Trung Dung giải đại
kinh là:
- Ngũ luân.
- Những đường lối chính trị.
và giải đại bản là ngũ thường,
hoặc là gốc lớn của thiên hạ.
Thiết tưởng còn có thể cắt nghĩa đoạn này
như sau: Thánh nhân là những người đã có thể:
- Tháo gỡ và tìm ra những đường lối chính yếu của nhân loại.
- Tìm ra được căn bản của nhân loại.
- Hiểu được mục đích biến thiên, hóa dục của trời đất.
Thánh
nhân đã tìm ra được căn bản của nhân loại và minh định căn bản căn
nguyên ấy chính là Trời.
Đồng thời các ngài cũng nhận định rằng tất
cả mọi cuộc biến thiên, tiến hóa
trong trời đất là cốt giúp con người cải thiện mình, giúp con
người đạt được mục đích cao siêu ấy.
Như vậy đường lối chính yếu của con người
là phải biết tận dụng hoàn cảnh xã hội và tha nhân, thời gian và không
gian, và phải hiểu biết về mình cho tận tường để có thể tiến hóa, để có
thể phục hồi bản nguyên, hay quy nguyên phục mệnh theo từ ngữ của
Đạo Đức Kinh.
Đường lối nhân loại tưởng chừng hết sức đa
đoan, phức tạp, nhưng kỳ thực chỉ có hai chiều hướng chính yếu:
a/ Hướng ngoại để mưu sinh. Chiều hướng
ngoại tức là chiều vãng, tức là chiều đi ra ngoại cảnh, đi vào xã
hội. Á Đông xưa gọi là nhập thế.
b/ Hướng nội để mưu đạo. Chiều hướng nội
tức là chiều lai, chiều đi vào tâm linh, để cầu đạo, đắc đạo,
phối thiên.
Trung Dung đã xác định hai chiều hướng ấy nơi chương 25: «Tính chi đức
dã, hợp nội ngoại chi đạo dã.» Hai chiều hướng ấy cũng đã ghi
trong tượng hình Thái Cực:
|
—>
: chiều hướng ngoại (VÃNG)
<—
: chiều hướng nội (LAI)
Tâm điểm là Thái Cực, Trời.
Vòng tròn là ngoại cảnh, xã hội.
|
Xác định được rằng căn nguyên và cùng đích
con người là một, ấy là Trời, tức là tìm ra định luật tuần hoàn, thủy
chung như nhất.
Xác định được hai chiều vãng lai, từ nhất
tiến ra vạn, rồi lại từ vạn trở về nhất, là tìm ra được
định luật Âm Dương thác tống,
vãng lai, phản phúc của
Dịch Kinh.
2. Chuân chuân kỳ nhân ... hạo hạo
kỳ Thiên.
Thánh nhân
là những người siêu việt, có một lý tưởng cao siêu tuyệt đỉnh, sống một
cuộc đời hoàn thiện tuyệt vời, sâu xa như vực thẳm, mênh mang như Trời.
Legge
dịch câu ‘hạo hạo kỳ thiên’ là ‘Hãy gọi Ngài là Trời, Ngài
mênh mang biết bao’.
Thiệu Văn biên giải câu ‘hạo hạo kỳ thiên’ hết sức đặc biệt. Tạm dịch thành mấy
vần thơ như sau:
«Trời người đâu có chia hai,
Con
người vì có hình hài mới xa.
Trông, nghe, suy nghĩ, lân la,
Ai
ai cũng tưởng tự ta tự mình.
‘ Ta
’, ‘mình’ khi đã phát sinh,
Con
người thôi thế đã đành nhỏ nhoi.
Nếu
trừ được hết hình hài,
Con
người hợp nhất với Trời như xưa.
Hình
hài làm thế nào trừ?
Muốn
trừ: Bỏ hết riêng tư, ta, mình.
Trừ
xong lộng lộng trời xanh,
Tâm
ta lồng lộng một vành mênh mang.
Hết
còn cách trở quan san,
Trời
người hợp nhất muôn vàn khinh phiêu.»
Những lời bình giải như vậy thiết tưởng
cũng phù hợp với ý Trình Tử. Trình Tử viết trong Di Thư: «Người và trời
đất là một, nhưng con người tự coi mình là ti tiểu, tại sao?»
3. Cẩu bất cố thông minh thánh trí... kỳ thục năng tri chi.
Trung
Dung cho rằng thánh nhân là những người:
- Đạt
đạo Trung Dung,
- Thông
minh thượng trí,
- Đạt
tới thiên đức, thiên đạo,
cho nên
phi là những bậc thánh nhân, thì không ai hiểu nổi thánh nhân. Điều đó
không lạ, vì định luật ‘Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’.
Tam Quốc Chí có câu: «Yến tước an tri hồng hạc chí tai?»
燕
雀
安
知
鴻
鶴
志
哉
(Chim di, chim sẻ làm sao biết
được chí của chim hồng, chim hạc?)
Trang Tử cũng viết
trong thiên Tiêu tiêu du:
«Người trí nhỏ không hiểu được người trí lớn, vật sống ít năm không thể
hiểu được những chuyện lâu dài nhiều năm.»
Tại
sao? Vì thánh nhân là những người thông minh tuyệt phẩm, nhìn thấy toàn
thể, bao quát không gian, thời gian, lịch sử, địa dư; còn những người
tiểu trí chỉ trông thấy một vài vấn đề, biết một vài khía cạnh, lại bị
giam hãm trong những khung cảnh lịch sử, địa dư eo hẹp, trong những
thành kiến hẹp hòi, như vậy làm sao hiểu được thánh nhân?
CHÚ THÍCH
Danh ngôn đối chiếu:
In the
紹 聞 編
we read:
天 人 本 無 二,
人 只 有 此
形 體,
與 天 便 隔,
視 聽,
思 慮,
動 作 皆 曰 由 我,
各 我 其 我,
可 知 其 我 小 也.
除 卻 形 體,
便 渾 是 天.
形 體 如 何 除 得?
只 克 去 有 我 之 私,
便 是 除 也.
天 這 般 廣 大,
吾 心 亦 這 般 廣 大,
而 造 化 無 間 於 我,
故 曰 浩 浩 其 天.
Thiên nhân bản vô nhị, nhân
chỉ hữu thử hình thể, dữ Thiên tiện cách, thị thính, tư lự, động tác
giai viết do ngã, các ngã kỳ ngã, khả tri kỳ ngã tiểu dã. Trừ khước hình
thể, tiện hồn thị Thiên. Hình thể như hà trừ đắc? Chỉ khắc khử hữu ngã
chi tư, tiện thị trừ dã. Thiên giá ban quảng đại, ngô tâm diệc giá ban
quảng đại, nhi tạo hóa vô gián như ngã, cố viết «hạo hạo kỳ Thiên».
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11 12
13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31
32
33
|