TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN
II: TRUNG DUNG
BÌNH DỊCH
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11 12
13
14
15 16
17 18
19
20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31 32
33
Chương 20
SỰ HOÀN THIỆN LÀ LÝ TƯỞNG CỦA NHÂN QUẦN,
QUỐC GIA, XÃ HỘI
第 二 十 章
哀
公 問 政.
子 曰:
文
,武
之 政,
布 在 方 策.
其 人 存,
則 其 政 舉.
其 人 亡,
則 其 政 息.
人 道 敏 政;
地 道 敏 樹.
夫,
政 也 者 蒲 盧 也
.故
為 政 在 人;
取 人 以 身;
修 身,
以 道,
修 道 以 仁.
仁 者,
人 也,
親 親 為 大.義
者,宜
也;尊
賢 為 大.親
親 之 殺,
尊 賢 之 等,
禮 所 生 也
.
在
下 位 不 獲 乎 上,
民 不 可 得 而 治 矣.
故 君 子 不 可 以 不 修 身.
思 修 身,
不 可 以 不 事 親.
思 事 親,
不 可以 不 知 人.
思 知 人,
不 可 以 不 知 天.
天
下 之 達 道 五;
所 以 行 之 者 三.
曰:
君 臣 也,
父 子 也,
夫 婦 也,
昆 弟 也,
朋 友 之 交 也;
五 者,
天 下 之 達 道 也
.知
,仁
,勇
三 者;
天 下 之 達 德 也.
所 以 行 之 者 一 也.
或 生 而 知 之;
或 學 而 知 之;
或 困 而 知 之.
及 其 知 之 一 也
.或
安 而 行 之;
或 利 而 行 之;
或 勉 強 而 行 之;
及 其 成 功 一 也.
子
曰:
好 學 近 乎 知.
力 行 近 乎 仁.
知 恥 近 乎 勇.
知 斯 三 者,
則 知 所 以 修 身.
知 所 以 修 身,
則 知 所 以 治 人.
知 所 以 治 人,
則 知 所 以 治 天 下 國 家 矣.
凡
為 天 下 國 家 有 九 經;
曰:
修 身 也,
尊 賢 也,
親 親 也,
敬 大 臣 也,
體 群 臣 也,
子 庶 民 也,
來 百 工 也,
柔 遠 人 也,
懷 諸 侯 也
.
修
身,
則 道 立.
尊 賢,
則 不 感.
親 親 則 諸 父 昆 弟 不 怨.
敬 大 臣,
則 不 眩.
體 群 臣,
則 士 之 報 體 重.
子 庶 民,
則 百 姓 勸.
來 百 工,
則 財 用 足.
柔 遠 人,
則 四 方 歸 之.
懷 諸 侯,
則 天 下 畏 之.
齊
明
,盛
服
,非
體 不 動;
所 以 修 身 也.
去 讒,
遠 色,
賤 貨 而 貴 德;
所 以 勸 賢 也.
尊 其 位,
重 其 祿,
同 其 好 惡;
所 以 勸 親 親 也.
官 盛 任 使:
所 以 勸 大 臣 也.
忠 信,
重 祿,
所 以 勸 士 也.
時 使,
薄 斂,
所 以 勸 百 姓 也.
日 省,
月 試,
既 稟 稱 事,
所 以 勸 百 工 也.
送 往,
迎 來,
嘉 善,
而 矜 不 能
;所
以 柔 遠 人 也.
繼 絕 世,
舉 廢 國,
治 亂,
持 危,
朝 聘 以 時,
厚 往 而 薄 來;
所 以 懷 諸 侯 也.
凡 為 天 下 國 家 有 九 經;
所 以 行 之 者 一 也
.
凡
事 豫,
則 立;
不 豫,
則 廢.
言 前 定,
則 不 跲.
事 前 定,
則 不 困.
行 前 定,
則 不 疚.
道 前 定,
則 不 窮.
在 下 位 不 獲 乎 上,
民 不 可 得 而 治 矣.
獲 乎 上 有 道;
不 信 乎 朋 友,
不 獲 乎 上 矣.
信 乎 朋友 有 道;
不 順 乎 親,
不 信 乎 朋 友 矣.
順 乎 親 有道:
反 者 身 不 誠
,不
順 乎 親 矣.
誠 身 有 道;
不 明 乎 善,
不 誠 乎 身 矣.
誠
者,
天 之 道 也.
誠 之 者,
人 之 道 也.
誠 者,
不 勉 而 中,
不 思 而 得,
從 容 中 道:
聖 人 也.
誠 之 者,
擇 善 而 固 執 之 者 也.
博
學 之,
審 問 之,
慎 思 之,
明 辨 之,
篤 行 之.
有 弗 學,
學 之 弗 能,
弗 措 也.
有 弗 問,
問 之 弗 知,
弗 措 也.有
弗 思,
思 之 弗 得,
弗 措 也.
有 弗 辨,
辨 之 弗 明,
弗 措 也.有
弗 行,行
之 弗 篤,
弗 措 也.
人 一 能 之,
己 百 之,人
十 能 之,
己 千 之.
果 能 此 道 矣,
雖愚 必 明,
雖 柔 必 強.
PHIÊN ÂM
Ai Công
vấn chính. Tử viết: «Văn, Võ chi chính, bố tại phương sách. Kỳ nhân tồn,
tắc kỳ chính cử. Kỳ nhân vong, tắc kỳ chính tức. Nhân đạo mẫn chính; địa
đạo mẫn thọ. Phù, chính dã giả, bồ lư dã. Cố vi chính tại nhân; thủ nhân
dĩ thân; tu thân, dĩ đạo, tu đạo dĩ nhân. Nhân giả, nhân dã, thân thân
vi đại. Nghĩa giả nghi dã; tôn hiền vi đại. Thân thân chi sái, tôn hiền
chi đẳng, lễ sở sinh dã.
Tại hạ vị
bất hoạch hồ thượng, dân bất khả đắc nhi trị hĩ. Cố quân tử bất khả dĩ
bất tu thân. Tư tu thân, bất khả dĩ bất sự thân. Tư sự thân, bất khả dĩ
bất tri nhân. Tư tri nhân, bất khả dĩ bất tri thiên.
Thiên hạ
chi đạt đạo ngũ; sở dĩ hành chi giả tam. Viết: quân thần dã, phụ tử dã,
phu phụ dã, côn đệ dã, bằng hữu chi giao dã; ngũ giả, thiên hạ chi đạt
đạo dã. Trí, nhân, dũng tam giả; thiên hạ chi đạt đức dã. Sở dĩ hành chi
giả nhất dã.
Hoặc sinh
nhi tri chi; hoặc học nhi tri chi; hoặc khốn nhi tri chi. Cập kỳ tri chi
nhất dã. Hoặc an nhi hành chi; hoặc lợi nhi hành chi; hoặc miễn cưỡng
nhi hành chi. Cập kỳ thành công nhất dã.
Tử viết:
Hiếu học cận hồ trí. Lực hành cận hồ nhân. Tri sỉ cận hồ dũng. Tri tư
tam giả, tắc tri sở dĩ tu thân. Tri sở dĩ tu thân, tắc tri sở dĩ trị
nhân. Tri sở dĩ trị nhân, tắc tri sở dĩ trị thiên hạ quốc gia hĩ.
Phàm vi
thiên hạ quốc gia hữu cửu kinh; viết: thân dã, tôn hiền dã, thân thân
dã, kính đại thần dã, thể quân thần dã, tử thứ dân dã, lai bá công dã,
nhu viễn nhân dã, hoài chư hầu dã.
Tu thân,
tắc đạo lập. Tôn hiền, tắc bất hoặc. Thân thân tắc chư phụ côn đệ bất
oán. Kính đại thần, tắc bất huyễn. Thể quần thần, tắc sĩ chi báo lễ
trọng. Tử thứ dân, tắc bá tính khuyến. Lai bá công, tắc tài dụng túc.
Nhu viễn nhân, tắc tứ phương quy chi. Hoài chi hầu, tắc thiên hạ uý chi.
Trai
minh, thịnh phục, phi lễ bất động; sở dĩ tu thân dã. Khử sàm, viễn sắc,
tiện hóa nhi quý đức; sở dĩ khuyến hiền dã. Tôn kỳ vị, trọng kỳ lộc,
đồng kỳ hiếu ố; sở dĩ khuyến thân thân dã. Quan thịnh nhậm sử: sở dĩ
khuyến đại thần dã. Trung tín, trọng lộc, sở dĩ khuyến sĩ dã. Thời sử,
bạc liễm, sở dĩ khuyến bá tính dã. Nhật tỉnh, nguyệt thí, khái lẫm xứng
sự, sở dĩ khuyến bá công dã. Tống vãng, nghinh lai, gia thiện, nhi căng
bất năng; sở dĩ nhu viễn nhân dã. Kế tuyệt thế, cử phế quốc, trị loạn,
trì nguy, triều sính dĩ thời, hậu vãng nhi bạc lai; sở dĩ hoài chư hầu
dã. Phàm vi thiên hạ quốc gia hữu cửu kinh; sở dĩ hành chi giả nhất dã.
Phàm sự
dự, tắc lập; bất dự, tắc phế. Ngôn tiền định, tắc bất cáp. Sự tiền định,
tắc bất khốn. Hạnh tiền định, tắc bất cửu. Đạo tiền định, tắc bất cùng.
Tại hạ vị bất hoạch hồ thượng, dân bất khả đắc nhi trị hĩ. Hoạch hồ
thượng hữu đạo; bất tín hồ bằng hữu, bất hoạch hồ thượng hĩ. Tín hồ bằng
hữu hữu đạo: bất thuận hồ thân, bất tín hồ bằng hữu hĩ. Thuận hồ thân
hữu đạo: phản chư thân bất thành, bất thuận hồ thân hĩ. Thành thân hữu
đạo: bất minh hồ thiện, bất thành hồ thân hĩ.
Thành
giả, Thiên chi đạo dã, Thành chi giả, nhân chi đạo dã. Thành giả, bất
miễn nhi trúng, bất tư nhi đắc, thung dung trung đạo: Thánh nhân dã.
Thành chi giả, trạch thiện nhi cố chấp chi giả dã.
Bác học
chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất
học, học chi phất năng, phất thố dã. Hữu phất vấn, vấn chi phất tri,
phất thố dã. Hữu phất tư, tư chi phất đắc, phất thố dã. Hữu phất biện,
biện chi phất minh, phất thố dã. Hữu phất hành, hành chi phất đốc, phất
thố dã. Nhân nhứt năng chi, kỷ bá chi, nhân thập năng chi, kỷ thiên chi.
Quả năng thử đạo hĩ, tuy ngu tất minh, tuy nhu tất cường.
CHÚ THÍCH
-
Ai Công
哀 公
=
Vua nước Lỗ, thời Xuân Thu. -
Phương
方
= bản gỗ vuông. - Sách
策
= thẻ tre (sách vở xưa viết vào bản gỗ hay thẻ tre). - Tức
息
= tiêu diệt. - Bồ lư
蒲 盧
= Lau sậy
chóng tốt. - Sái
殺=
bớt dần. - Đẳng
等
= thứ bậc. - Nhân
仁=
Nhân đức; hoàn thiên; phần thiên lý.
- Hoạch
獲=
được lòng.
-
Chi
之
= cái đó, điều ấy, định luật thiên nhiên ấy, lẽ ấy (những điều vừa nói
trên; ce, cet, cela, la sagesse la vertu, la loi naturelle). - An
nhi hành chi
安 而 行 之
= ung
dung mà làm. - Lợi nhi hành chi
利 而 行 之=
vì lợi mà làm. - Miễn cưỡng nhi hành chi
勉 強 而 行 之=
vì sợ hãi tội lỗi mà làm.
- Kinh
經=
phương pháp. - Thể
體
= coi như
chân tay, coi như chính mình. - Hoặc
惑=
nhầm. - Huyễn
眩=
nhầm. - Nhu
柔=
đối đãi tử tế. - Hoài
懷=
thương yêu.
- Minh
明
= thanh khiết. - Thịnh phục
盛 服=
ăn mặc đàng hoàng. - Sàm
讒=
nói dèm pha.- Sắc
色=
nữ sắc. - Thời sử
時 使=
sai cho hợp thời. - Bạc liễm
薄 斂=
thu ít. - Xứng sự
稱 事=
thích hợp với. - Nguy
危=
nguy cơ. - Trai
齋=
(1) Trai giới (cổ nhân trước khi tế tự, không uống rượu, không ăn hành
tỏi, tắm rửa); (2) Tu thân. - Khuyến
勸=
khuyến khích. - Thí
試=
thi. - Khái lẫm
既 稟=
cho lúa gạo. - Trì
持=
giữ, giúp.
- Dự
豫=
tính trước. - Phế
廢=
hỏng. - Cáp
跲=
vấp váp. - Cứu
疚=
lỗi, buồn, bệnh kinh niên. - Thành
誠=
hoàn thành, hoàn thiện.
- Trung đạo
中 道=
Sự chí thành chí thiện.
- Bác
博=
rộng. - Thẩm
審=
xét. - Phất
弗=
chẳng. - Thố
措=
bỏ.
DỊCH CHƯƠNG 20
Sự hoàn
thiện là lý tưởng cho nhân quần, quốc gia, xã hội
Ai
Công hỏi chính trị,
Đức
Khổng mới thưa rằng:
Phép
chính trị, Vua Văn, Vua Võ,
Nay
hãy còn ghi ở sử sanh.
Người
ngoan chính trị thịnh hành
Con
người gian ác, tan tành quốc gia.
Người
tài đức phun hoa chính trị,
Đất
tốt màu trổ rễ cỏ cây.
Chính
quyền lau lách dắt dây,
Cầm
quyền hành chánh dở hay tại người.
Nếu
mong muốn nhân tài cộng tác,
Mình
làm sao nhân đức hơn người.
Tu
thân lấy đạo tài bồi,
Đạo
tu, trước phải rạng ngời đức nhân.
Người
chân chính là nhân là ái,
Yêu từ
nhà yêu mãi ra xa.
Nghĩa
là mọi vẻ tinh hoa,
Muốn
dân trọng nghĩa trước ta tôn hiền.
Phân
thân sơ, biết hay hèn,
Trọng
nhân, trọng nghĩa xây nền lễ nghi.
Nếu
trên dưới phân chia bè bối,
Chẳng
tin nhau, dân hỏi sao yên.
Thân
mình quân tử lo rèn,
Tu
thân nhưng chớ lãng quên tình nhà.
Muốn
phụng dưỡng mẹ cha phải đạo,
Phải
hiểu sao thấu đáo lòng người.
Biết
người trước phải biết Trời,
Hiểu
Trời chẳng nổi, hiểu người làm sao.
Đạo
thiên hạ có năm hình thức,
Nương
ba chồi thịnh đức sum xuê.
Quân
thần, phụ tử, phu thê,
Anh em
cốt nhục, bạn bè tất giao.
Ấy năm
đạo tối cao thiên hạ,
Trí,
dũng, nhân đức cả ba chồi.
Năm
cành ba cỗi tốt tươi,
«Tinh
thành» do một gốc trời trổ sinh.
Biết
lẽ đó hoặc sinh đã biết,
Hoặc
là do mài miệt học hành,
Hoặc
do khốn khổ điêu linh,
Nhưng
khi đã biết sự tình chẳng hai.
Cũng
có kẻ thảnh thơi hành đạo,
Có kẻ
theo vì gạo, vì tiền.
Có
người thằng thúc mới nên,
Nhưng
khi kết quả, vẫn in một bài.
Muốn
thông thái không ngoài học vấn,
Muốn
tu nhân phải gắng công lao.
Muốn
lên hùng dũng anh hào,
Hai câu
liêm sỉ ghi vào thâm tâm.
Trí-nhân-dũng tu thân là lý,
Biết
tu thân ắt trị nổi người.
Trị
người, hiểu biết khúc nhôi,
Con
thuyền thiên hạ âu tài đẩy đưa.
Phép
trị nước từ xưa có chín,
Phải
tu thân, phải kiếm hiền tài.
Thương
yêu thân tộc trong ngoài,
Đại
thần thời nể, quan thời xót thương.
Lê dân
chăm dẫm như con,
Nhân
tài khuyến khích, mở mang trăm nghề.
Người
viễn xứ quay về ta rước,
Những
chư hầu bạc nhược ta nâng.
i
Tu thân đạo sẽ thịnh dần,
ii Tôn hiền, hiền giúp, đỡ lầm đỡ sai.
iii
Yêu thân thuộc, trong ngoài hết oán,
iv
Kính đại thần, hết nạn dèm pha.
Bao nhiêu công bộc quốc gia,
Một lòng ưu ái như là chân tay.
Tình ưu ái sẽ gây cảm xúc,
Hàng sĩ phu nỗ lực đền ơn.
vi
Thương dân một dạ như con,
Toàn dân thiên hạ ai còn kêu ca ?
vii
Chiêu bách nghệ tăng gia sản xuất,
Thời quốc gia sung túc hóa tài.
viii Trọng người xứ lạ nước ngoài,
Bốn phương hâm mộ, nơi nơi hướng về.
ix Các chư hầu chở che một dạ,
Sẽ khiến cho thiên hạ sợ uy.
I
Tu thân dạ chẳng suy vi,
Gương lòng vằng vặc quang huy rỡ ràng.
Trang nghiêng mũ áo đường hoàng,
Những điều dang dở chẳng làm chẳng nghe.
II
Muốn khuyến hiền hãy chê nịnh hót,
Hãy tránh xa sắc tốt lả lơi.
Khinh tài trọng nghĩa không ngơi,
Treo gương hiền đức cho đời soi chung.
III Khiến dân chúng thêm lòng hiếu thảo,
Ta tỏ tình thảo lảo kính nhường,
Lợi danh chẳng tiếc họ hàng,
Những bề yêu ghét, ta thường chiều theo.
IV Để đại thần dễ điều hành sự,
Ta bổ sung tá sứ dưới trên.
V Trước sau trung tín một niềm,
Tăng lương để khiến nhân viên tận tình.
VI Muốn bách tính kính tin một dạ,
Xâu phải thời, thuế má phải chăng.
VII Muốn cho công nghệ mở mang,
Luôn luôn theo dõi, thời thường thi đua.
Đem lúa gạo thưởng cho xứng đáng.
Là mọi nghề cố gắng ra công.
VIII
Tiễn đưa người muốn ruổi rong,
Sẵn sàng đón rước kẻ mong về mình.
Người có đức, tâm thành khen ngợi,
Người vô năng cảm nỗi xót thương.
Dĩ nhiên hiền đức tứ phương,
Mến ta họ sẽ tìm đường về ta.
IX
Những nước nhỏ, vận nhà nghiêng ngửa,
Ta tìm
người tu sửa mối giường.
Chấn
hưng những nước tan hoang,
Dẹp
yên loạn lạc, dấp đường hiểm nguy.
Lễ
triều sính có kỳ có hạn,
Ít của
dâng, đầy đặn của cho.
Bao
dung không bến không bờ,
Một
lòng lân mẫn giúp cho chư hầu.
Trị
thiên hạ trước sau chín mối,
Nhưng
tóm thâu vào mỗi chữ thành.
Việc
gì tính trước cũng linh,
Không
toan tính trước âu đành dở dang.
Lời
xếp trước, hoang mang khôn lẽ,
Việc
tính rồi hồ dễ rối ren.
Hành
vi đã sẵn chốt then,
Sẽ
không vấp vướng, sẽ nên tinh thành.
Đạo
làm người có rành duyên cớ,
Sẽ mênh
mang muôn thuở chẳng cùng.
Khi
cấp dưới không tròn nhiệm vụ,
Thì
cấp trên chẳng đủ tin dùng.
Dưới
trên đã chẳng tin lòng,
Làm
sao dân nước dám mong trị bình.
Muốn
biết rõ trên tin hay ngán,
Thử
xét xem bè bạn nghĩ sao.
Bạn bè
đã chẳng tin nào,
Người
trên khi ấy làm sao tin mình.
Muốn
thấu đáo ý tình bè bạn,
Thử
xét ta hiếu thuận ra sao.
Mẹ cha
còn đối tầm phào,
Bạn bè
khi ấy lẽ nào tin ta.
Muốn
thấu đáo tình nhà tỏ rõ,
Thử
xét xem ta dở hay hay.
Tâm
hồn chếch mác chẳng ngay,
Làm
sao thảo thuận cho đầy phận con.
Muốn
thấu đáo tâm hồn tốt xấu,
Thử
xét xem hiểu thấu mấy tầm.
Điều
lành chưa biết biện phân,
Làm
sao có thể thành thân, thành người ?
Hoàn
toàn là đạo của Trời,
Trở
nên hoàn thiện đạo người xưa nay.
Người
hoàn thiện cất tay là trúng,
Chẳng
cần suy cũng đúng chẳng sai.
Thung
dung trung đạo tháng ngày,
Ấy là
vị Thánh từ ngày lọt lòng.
Còn
những kẻ cố công nên thánh,
Gặp
điều lành phải mạnh tay co...
Ra
công học hỏi thăm dò,
Học
cho uyên bác, hỏi cho tận tường.
Đắn đo
suy nghĩ kỹ càng,
Biện
minh thấu triệt, quyết mang thi hành.
Đã
định học chưa thành chưa bỏ,
Đã hỏi
han, chưa tỏ chưa thôi.
Đã
suy, suy hết khúc nhôi.
Chưa
ra manh mối, chưa rời xét suy.
Biện
luận mãi, tới khi vỡ lẽ,
Chưa
rõ ràng, không thể bỏ qua.
Đã làm
làm tới tinh hoa,
Tinh
hoa chưa đạt, việc ta còn làm.
Người
một chuyến thâu toàn thắng lợi,
Ta tốn
công dở dói trăm khoanh;
Người
làm mười lượt đã thành,
Ta làm
nghìn thứ, ta ganh với người.
Đường
lối ấy nếu ai theo được,
Dẫu u
mê sau trước sẽ thông.
Dẫu
rằng mềm yếu như không,
Sớm
chày cũng sẽ ra lòng sắt son.
BÌNH LUẬN
Chính giả
chính dã
政 者 正 也
(Làm chính trị cốt là sửa người, dạy
người).
Cho nên muốn làm chính trị mình phải là người tài đức, rồi lại phải có
những người tài đức khác cộng tác. Nhưng muốn cho mình hay, phải tu
thân; muốn tu thân, phải theo đạo; mà theo đạo là cốt để trở nên hoàn
thiện.
1. Có
nhân đức mới biết yêu thương mọi người, từ thân thuộc bắt dần mãi ra xa,
mới biết nhận xét tài đức của người, biết trọng kính hiền tài cho hợp
lý. Thương cho đúng, kính cho phải. Thế là xây nền tảng cho lễ nghi.
2. Tu
thân rất là cần yếu. Nhưng muốn tu thân, cần phải biết mình biết người,
và nhất là biết Trời, vì Trời là gốc. Quên gốc thì biết ngọn vô ích.
3. Sự
hoàn thiện là nền tảng và cũng là cùng đích của cuộc đời. Có hoàn thiện
mới có ngũ luân tam đức. Học để biết thế nào là hoàn thiện. Hành là để
tiến dần hoàn thiện. Nhưng học với hành khó hay dễ là tùy từng hạng
người. Nhưng tuy chóng chậm khó dễ có khác nhau, nhưng kết quả trước sau
cũng chỉ có một.
4. Nguyên
tắc căn bản để tiến tới Trí-Nhân-Dũng là:
- Học
hành. Có học trí mới mở mang.
- Gắng
gỏi làm điều lành. Không làm lành sao có thể trở nên tốt được?
- Biết
liêm sỉ. Có liêm sỉ mới thấy xấu hổ vì biết mình còn hèn kém, mới nỗ lực
gắng công, mới có thể cải quá tự tân, cố gắng tiến bước, và như vậy nghị
lực tinh thần mới dần dần tăng trưởng thêm mãi được.
5.
Nghệ thuật trị dân.
Nghệ
thuật trị dân thường được Tứ Thư Ngũ Kinh đề cập. Kinh Thư có
Hồng Phạm Cửu Trù. Trung Dung có Cửu Kinh.
Hồng Phạm Cửu Trù có 9 chương: (1) Ngũ hành, (2) Ngũ sự, (3) Bát chánh,
(4) Ngũ kỷ, (5) Hoàng cực, (6) Tam đức, (7) Kê nghi, (8) Thứ trưng, (9)
Ngũ phúc lục cực.
(1)
Ngũ hành
五 行
:
Đấng quân vương phải am tường vật lý, phải biết khai thác hết
tài nguyên của đất nước để lo cho dân no ấm.
(2)
Ngũ sự
五 事:
Đấng quân vương phải biết phương pháp tu thân:
- Dáng
điệu phải nghiêm trang.
- Nói
năng phải hợp lý.
- Trông
nhìn phải cho sáng suốt.
- Nghe
ngóng phải cho tinh tế.
- Nghĩ
ngợi phải cho thấu triệt.
(3)
Bát chánh
八 政
:
Đấng quân vương phải biết phương pháp trị dân. Cương lĩnh trị dân gồm 8
mối. Trị dân tức là lo cho dân:
- No ấm.
- Sung
túc, đủ tiện nghi.
- Có lễ
nghi tế tự.
- Có nhà
cửa đất đai.
- Có một
nền giáo hóa hẳn hoi.
- Khỏi bị
bọn gian ác, đạo tặc quấy nhiễu.
- Biết
đường tiếp nhân xử thế.
- Được
bảo vệ tính mệnh và tài sản trước nạn ngoại xâm, nhờ có binh hùng tướng
mạnh.
(4)
Ngũ kỷ
五 紀
:
Đấng quân vương phải am tường ý nghĩa của:
- Năm
- Tháng
- Ngày
- Sự vận
chuyển của nhật nguyệt, tinh tú.
- Lịch
số.
Như vậy
mới có thể dạy dân biết cách điều hòa công tác cho hợp thời hợp tiết, để
được ấm no, thịnh vượng, cho trời đất người cùng hòa tấu một bản nhã ca,
thanh bình thái thịnh.
(5)
Hoàng Cực
皇 極:
Đấng quân vương sẽ ở ngôi Hoàng Cực thay Trời trị dân. Muốn được vậy
phải có đức hạnh siêu phàm thoát tục, xứng đáng làm môi giới giữa Trời
và muôn dân.
(6)
Tam đức
三 德
:
Thuật trị dân phải dựa vào 3 đức:
- Chính
trực
- Cương
- Nhu
Nói thế, tức là muốn trị dân, chính trực chưa đủ, mà còn phải biết
cương, nhu, quyền biến, tùy thời.
(7)
Kê nghi
稽 疑
:
Đấng quân vương phải biết suy nghĩ, bàn bạc, hỏi han khi gặp trường hợp
nan giải. Trước một công việc trọng đại, sẽ hội ý kiến của:
- Vua
- Khanh,
sĩ, thứ dân
- Trời
(bằng cách bói cỏ thi và bói rùa)
Phối kiểm
lại sẽ biết thế nào là tốt, thế nào là xấu, và tìm ra đường lối đẹp đẽ
nhất để xử sự.
(8)
Thứ trưng
庶 徵
: Đấng
quân vương phải nhân các điềm Trời mà soát xét lại đường lối cai trị của
mình rằng dở hay hay. Lý do là vì đấng quân vương đúng danh hiệu, sẽ cảm
ứng với đất trời và hiểu được tiếng nói thầm lặng của đất trời, qua các
biến thiên của thời tiết.
(9)
Ngũ phúc lục cực
五 福 六 極
: Đấng
quân vương phải nhìn vào tình cảnh nhân dân để nhận định giá trị nền cai
trị của mình. Nếu sự cai trị hay, dân sẽ được ngũ phúc:
- Thọ
- Giàu
- Yên vui
- Ham
chuộng nhân đức
- Chết
già yên ổn
Nếu sự
cai trị dở, dân sẽ lao lung, tật bệnh, tảo vong, yểu tử, khổ sở, bất
lương, tật bệnh. Thế là lâm vòng lục cực:
- Chết
non
- Bệnh
tật
- Lo buồn
- Nghèo
khổ
- Tội ác
- Yếu ớt
Kinh Thư
viết: «Người xưa có lời rằng: Con người chẳng những soi bóng nước, còn
phải ngắm mình trước gương dân.»
NGŨ
KỶ
4 |
NGŨ PHÚC
9 |
NGŨ SỰ
2 |
BÁT CHÍNH
3 |
HOÀNG CỰC
5 – 10 |
KÊ NGHI
7 |
THỨ TRƯNG
8 |
NGŨ HÀNH
1 |
TAM ĐỨC
6 |
Hồng Phạm
Mục đích
của nền thiên trị trong Hồng Phạm chính là để tạo cho mọi người dân một
đời sống vật chất đầy đủ, một bảo đảm an ninh tối đa, một nền học vấn
khả quan, một đời sống xã hội công bình trật tự, một nền giáo hóa hẳn
hoi. Như vậy mọi người đều có cơ hội và hoàn cảnh thuận tiện để tu luyện
bản thân trở nên thánh thiện chẳng khác gì thiên tử.
Nghệ
thuật trị dân của Trung Dung qui vào 9 điểm gọi là Cửu Kinh, tóm tắt qua
đồ bản sau:
PHƯƠNG PHÁP THI HÀNH |
CỬU KINH |
KẾT QUẢ |
(1) Giữ tâm hồn trong sạch, nghiêm trang, không làm bậy |
Tu thân |
Đạo sẽ thịnh dần |
(2) Không nghe nịnh hót, tránh nữ sắc, trọng nghĩa khinh tài |
Kính hiền tài |
Hiền tài giúp mình đỡ sai lầm |
(3) Giúp đỡ và nghe lời họ hàng |
Thương yêu họ hàng |
Gia tộc không ai oán |
(4) Giúp họ có đủ phương tiện làm việc và đủ người phụ tá |
Kính đại thần |
Đại thần hết dèm pha gàng quải mình |
(5) Tăng lương |
Thương yêu công bộc quốc gia |
Sĩ phu sẽ nỗ lực đền ơn |
(6) Xâu phải thời, thuế má phải chăng |
Thương lê dân như con cái |
Dân chúng sẽ hài lòng |
(7) Lưu ý khuyến khích thi đua, tưởng thưởng |
Khuyến khích nhân tài, mở mang bá nghệ |
Quốc gia sẽ sung túc hóa tài |
(8) Đón rước hẳn hoi, dùng người hay, thương kẻ dở |
Đón tiếp người viễn xứ |
Nhân tài sẽ qui tụ về mình |
(9) Giúp họ có người cai trị -giúp dẹp loạn -tiếp đãi hẳn hoi-không
đòi công tiền nhiều-thưởng công |
Che chở chư hầu |
Thiên hạ sẽ sợ uy mình |
6. Tóm
lại, cái gì biết trước, tính trước được mới hay. Đạo làm người có biết
mới thực hiện được những gì cao cả, vĩ đại, mới tiến triển không cùng.
7. Sở dĩ
có sự mất lòng tin tưởng giữa các cấp, giữa bè bạn, giữa cha mẹ con cái,
đều là do tâm hồn con người chếch mác dở dang. Mà tâm hồn con người
chếch mác dở dang là vì họ không biết thế nào là điều thiện.
8. Muốn trở nên hoàn thiện cần phải tốn công lao:
- Học hỏi
triền miên
- Suy tư
mài miệt
- Biện
luận tinh tế
- Nỗ lực
thực hành
- Cố gắng
không ngừng
- Thất
bại không nản
Nếu thực
hiện được đúng như vậy thì lo gì mà không đạt được lý tưởng ước ao.
BẢNG TÓM
TẮT
TU THÂN |
TÔN HIỀN |
THÂN THÂN |
KÍNH ĐẠI THẦN |
THỂ QUÂN THẦN |
TỬ
THỨ DÂN |
LAI
BÁ CÔNG |
NHU VIỄN NHÂN |
HOÀI CHƯ HẦU |
个 |
QUÂN nhân
THẦN trung |
PHỤ từ
TỬ hiếu |
PHU nghĩa
PHỤ thính |
HUYNH
lương
ĐỆ đễ |
BẰNG HỮU
huệ thuận |
个 |
|
TRÍ |
<—> |
NHÂN |
<—> |
DŨNG |
|
|
个 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CHÚ THÍCH
Dẫn chứng I: Mạnh Tử viết: Khổng Tử bất đắc trung đạo nhi dữ chi,
tất dã cuồng quyền hồ? Cuồng giả tiến thủ, quyền giả hữu sở bất vi dã.
Khổng Tử khởi bất dục Trung đạo tai? Bất khả bất đắc; cố tư kỳ thứ dã.
孟 子 曰:
孔 子 不 得
中 道 而 與 之,
必 也 狂 獧 乎.
狂 者 進 取,
獧 有 所 不
為 也.
孔 子 豈 不 欲 中 道 哉?
不 可 不 得;
故 思 其 次
也
(Mạnh
Tử đáp: «Đức Khổng chẳng được hạng người đạt đến mức Trung Dung đặng
Ngài truyền đạo. Cho nên Ngài há chẳng chọn hạng cuồng và hạng quyến
sao? Cuồng giả là kẻ sĩ có chí tấn thủ trên đường đạo lý. Quyền giả là
kẻ sĩ chẳng chịu làm những điều phi nghĩa. Đức Khổng há chẳng muốn có
những đệ tử đạt đến mức Trung Dung sao? Nhưng vì không tìm được nên tìm
hạng thấp hơn.) (Mạnh Tử, Tận tâm [hạ-37])
- Traduction de James Legge: «When those in inferior situations do not
obtain the confidence of the sovereign, they cannot succeed in governing
the people.» (Four books, p.25)
-
Traduction de Couvreur: «Le peuple ne peut espérer d’être bien gouverné
par celui qui étant dans un rang inférieur n’a pas la confiance ni le
mandat de son supérieur.»
Le sacrifice de soi-même n'est pas difficile lorsqu'on est brulé par la
passion d'une grande aventure. Et il n'y a pas d'aventure plus belle et
plus dangereuse que la rénovation de l'homme moderne. (Alexis Carrel,
L'hommme cet inconnu, ch.8)
- Ký nhất nhật nhi thiên lý,
nô mã thập giá tắc diệc cập chi hĩ.
驥 一 日 而 千 里,
駑 馬 十 駕
則 亦 及 之 矣 (Tuân Tử,
Tu thân thiên).
(Con
ngựa ký ngày đi ngàn dặm, con ngựa nô đi 10 ngày cũng tới nơi.)
- Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. (Trời vận
hành mạnh mẽ, người quân tử cũng cố gắng không nghỉ ngơi.) (Dịch Kinh,
Càn quái; Dịch kinh tân khảo, tiết 14, tr.602)
- Nhất nhân nguyên lương, vạn bang dĩ trinh. (Kinh Thư, Thái giáp
hạ) 一 人
元 良 萬 邦 以 貞
(Một
người tốt, muôn dân sẽ hay.)
Trong bài "Một ý niệm về Trung Dung" đăng trong Đại Học số
15, tháng 5 năm 1960, tác giả Nhân Sinh đã có những lời bình luận rất
cao siêu thâm thúy về chữ Trung: «ĐẮC TRUNG... tức là đi hết đường dẫn
vào miền Trung "tận kỳ tính dĩ chí ư mệnh" mà mệnh là Thiên (thiên
mệnh chi vị tính), cho nên đắc Trung tức là "thánh nhân phối
thiên". Trung Dung hợp một với Thiên, đi vào đến cái nõn, cái trung
tâm huyền nhiệm. Nhớ lại hình 64 quẻ (chỉ vạn vật) bám chung quanh hình
tròn rỗng ở giữa (Thái cực): đắc Trung là thấu đến vòng tròn giữa, tức
là cái nhất quán, nghĩa là xâu được tất cả: muôn vật khác biệt mảnh vụn
đều bám quanh Thái cực (Các hữu Thái cực). Trung Dung bao gồm mọi
lập trường đối lập, là vì nó vượt lên trên tới chỗ "vô tư". Đây
là đoạn đường Khổng gặp Lão, Thích. "Tam giáo đồng nguyên". Khổng
nhằm Thái cực (Thánh nhân phối Thiên), Lão nhằm "Huyền đồng"
với đạo; Phật nhằm Minh tâm kiến tính; dị danh đồng chất; cả ba đều nhằm
Trung đức "Phục bổn hoàn nguyên" trở về đến trung tâm phát sinh ra vạn
vật. Từ phiền tạp trở vào đơn giản, từ bát quái tiến qua đợt tứ tượng để
cuối cùng tiến đến âm dương hòa trong Thái cực. Tức là đi lên mãi, lên
mãi lên nữa, lại lên nữa cho tới trí "trung hòa".
»
Mục lục
»
Tựa của Chu Hi
»
Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11 12
13
14
15 16
17 18
19
20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
31 32
33
|