ĐẠO ĐỨC KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

khảo luận & bình dịch

» mục lục » khảo luận

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

46

47

48

49

50

51

52

53

54

55

56

57

58

59

60

61

62

63

64

65

66

67

68

69

70

71

72

73

74

75

76

77

78

79

80

81

CHƯƠNG 11

VÔ DỤNG

無 用

Hán văn:

三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.

Phiên âm:

1. Tam thập phúc,[1] cộng nhất cốc.[2] Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.

2. Duyên [3] thực [4] dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.

3. Tạc hộ [5] [6] dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.

4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.[7]

Dịch xuôi:

1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.

2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.

3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.

4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.

Dịch thơ:

1. Bánh xe ba mươi tai hoa,

 Cái bầu giữa trống, nó nhờ nó quay.

2. Bát kia lấy đất dựng gầy,

 Nhờ lòng bát rỗng, mới hay đựng đồ.

3. Làm nhà trổ cửa nhỏ, to,

 Nhờ cửa mở trống, cái nhà mới quang.

4. Hữu hình để chở, để mang,

 Vô hình mới thực chính tang «cái dùng».

BÌNH GIẢNG

Trong chương này, Lão tử dùng ba ví dụ để nói lên sự quan trọng của Hư vô. Đó là:

- Khoảng không của trục xe

- Khoảng không trong lòng bát

- Khoảng không nơi các cửa lớn nhỏ, và

- Khoảng không trong lòng nhà.

Suy ra, thì cái hữu hình hữu tướng chỉ cốt là để dung chứa cái không, và cái không mới thực sự quan hệ.

Nhân chương này, thiết tưởng nên bàn về chữ Vô, chữ Không của đạo Lão.

1. Chữ Hư, Vô trong siêu hình học Lão giáo

Chữ Hư, chữ Vô, chữ Không, trong siêu hình học đạo Lão, tức là Tuyệt đối. Đạo đức kinh chương 40 viết: «Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư Vô.»

Xướng đạo Chân ngôn viết: Đạo gia gọi là Hư; Phật gia gọi là Không. «Không có thể nhìn thấy mọi sự, nghe thấy mọi sự. «Không» vẫn không làm gì gián cách, không vốn vô lượng, vô biên. Cho nên khi một người suy nghĩ, người cùng nhà không hay biết, mà Hư không vô lượng, vô biên đã biết, đã hay... Vì thế, Nho gia «thận độc, úy không» (cẩn thận khi ở một mình, sợ hãi cái Không).[8]

Nơi con người hư vô chính là chân tâm, bản tâm con người. Sách Tựu Chính lục viết: «Thiên hạ vạn sự vạn vật giai hữu hình, hữu tích, duy có tâm là không thể lấy hình tích mà tìm cầu; không tiếng không hơi; không không, đãng đãng...»[9]

2. Những khoảng không trong con người

Nếu ở nơi bánh xe, chén bát, nhà cửa, khoảng không trọng hơn khoảng có, thì ở nơi con người các khoảng không, đều trọng hơn khoảng có.

Y gia chỉ biết các khoảng có. Đạo gia chuyên chú trọng đến các khoảng không. Theo đạo gia thì có ba khoảng không quan trọng nhất trong con người, mà họ thường gọi là Thiên cốc, Ứng cốc, Linh cốc.

a) Thiên cốc 天 谷 hay Thượng đan điền 上 丹 田 hay Huyền quan khiếu 玄 關 竅 ở Nê hoàn cung 泥 丸 宮 hay Não thất ba.[10]

b) Ứng cốc 應 谷 hay Giáng cung 絳 宮 hay Trung đan điền 中 丹 田 ở xoang giữa ngực (médiastin) gần tim.[11]

c) Linh cốc 靈 谷 hay Khí hải 氣 海 hay Hạ đan điền 下 丹 田 xoang bụng dưới rốn (cavité abdominale, région Hi pogastrique).[12]

Thiên cốc 天 谷 hay Huyền quan khiếu 玄 關 竅, dĩ nhiên là quan trọng hơn cả.[13]

Sách Tu chân biện nạn tiền biên viết:

       Tại thiên, tắc Vô cực                        在 天 則 無 極

       Tại nhân, tắc Huyền khiếu. [14]      在 人 則 玄 竅

Các xoang cốc trong người đều không thương với nhau bằng những kinh lạc vô hình và nhất là qua ngả ống giữa tủy xương sống (canal épendymaire).

3. Tu đạo là đi tìm không, thực hiện không

Người tu đạo chính là đi tìm Không. Những cái có, nhỡn tiền, ai chẳng thấy. Xác thịt trần trần, ai chẳng thấy. Cho nên người cao siêu, tu đạo, tức là đi tìm cái vô hình, vô tướng mà mọi người không tìm thấy; chỉ cho nhau cái không, mà người thường không thấy.

Tính mệnh khuê chỉ 性 命 圭 旨 có thơ rằng:

«Đại đạo căn kinh thức giả hi

Thường nhân nhật dụng thục năng tri

Vị quân chỉ xuất thần tiên quật

Nhất khiếu loan loan tự nguyệt mi.»

一 竅 灣 灣 似 月 眉

Tạm dịch:

Căn kinh đại đạo ít ai hay,

Thường nhân dùng mãi, biết nào ai?

Vì người, xin chỉ thần tiên động,

Một khiếu cong cong tựa nét ngài... [15]

Tu là đem tâm thần về Không động.

Trương Vô Mộng nói: «Tâm tại linh quan, thân hữu chủ. Khí qui nguyên hải thọ vô cùng.» 心 在 靈 關 身 有 主氣 歸 元 海 壽 無 窮.

 «Tâm ở linh quan thân có chủ,           

Khí về nguyên hải thọ vô cùng...» [16]

Nhập dược kính nói: «Nê hoàn là bản cung của Thần, Thần về Nê hoàn thời vạn thần triều hội. Vì thế nói: «Người muốn bất tử, thời tu Côn Lôn.»[17]

Mục đích của sự tu trì là: Thành thần trở về với Vô cực. (Luyện thần hoàn hư. Phục qui vô cực. 煉 神 還 虛, 復 歸 無 極)

Các đạo sĩ Yoga xưa tu luyện không phải đi tìm «Thiên đường» mà cốt là kết hợp với bản nguyên của vũ trụ. [18]

Như vậy con người một nửa là Hữu một nửa là Vô. Tìm ra được nửa Vô trong người, làm cho các năng lực còn tiềm tàng trong Vô đó được thi triển, mới là con người toàn diện. [19]

Lý tưởng đời sống theo đạo Lão đều xoay quanh chữ VÔ . Ta thấy đạo Lão toàn chủ trương VÔ:

       - Vô kỷ 無 己

       - Vô công 無 功

       - Vô danh 無 名

       - Vô vi 無 為

       - Vô dục 無 欲

Có hoàn toàn Vô, mới hòa mình được với Bản thể vũ trụ vô biên tế.

Thiệu Khang Tiết nói: «Vô ngã, nhiên hậu vạn vật giai ngã. Thử thị chí ngôn, diệc thị chân quyết.» [20]

Tống Long Uyên bình chương này đại khái như sau: Trời đất có trống giữa thì âm dương mới có diệu dụng. Thánh nhân có «hư tâm» sự vạn dụng mới vi diệu. Nếu đất trời không trống giữa, thì bốn mùa sẽ không vần xoay, quỉ thần sẽ không biến hóa, cho nên người biết thế nào là «Hư Trung», sẽ biết căn bản của Tạo hóa. Nếu thánh nhân không «hư tâm», sẽ không hiểu được thiên lý vi diệu, không làm cho nhân tâm trở nên chính đính, không thể sửa đổi phong tục, treo gương cho nhân quần. Cho nên người biết thế nào là «hư tâm» sẽ biết căn bản của đạo đức. [21]


[1] Phúc : tai hoa (rayons, rais).

[2] Cốc : bầu (moyeu).

[3] Duyên : pha trộn, nhào nặn.

[4] Thực : đất sét, đất thó.

[5] Hộ : cửa một cánh, (cửa 2 cánh là môn).

[6]: cửa sổ.

[7] Xướng đạo chân ngôn (tr. 28b) có một đoạn dài nói về Hư vô.

[8] Đạo gia vị chi Hư, Phật gia vị chi Không. Không năng vô sở bất kiến, vô sở bất văn... Không vô sở cách. Không bản vô lượng vô biên. Cố nhất nhân phát nhất niệm đồng thất chi nhân bất tri, nhi vô lượng chi không tri chi. Nho gia chi thận độc, úy không cố dã. 道 家 謂 之 虛 佛 家 謂 之 空 . 空 能 無 所 不 見 無 所 不 聞 . 空 無 所 隔 空 本 無 量 無 邊 . 故 一 人 發 一 念 同 室 之 人 不 知 而 無 量 之 空 知 之 . 儒 者 之 慎 獨 畏 空 故 也. Xướng đạo chân ngôn, quyển 5, tr. 31.

[9] Thiên hạ vạn vật giai hữu hình, hữu tích, duy tâm bất khả dĩ hình tích cầu, vô thanh vô xú, không không, đãng đãng. 天 下 萬 物 皆 有 形 有 跡 惟 心 不 可 以 形 跡 求 無 聲 無 臭 空 空 蕩 蕩 Tựu Chính lục, tr. 1b.

[10] Lạc Dục Đường Ngữ Lục 樂 育 堂 語 錄, quyển 2: Hà vị thiên cốc? Cái nhân đầu hữu cửu cung, trung hữu nhất sở, danh viết thiên cốc. Thanh tịnh vô trần, năng tương nguyên thần an trí kỳ trung, hào bất ngoại trì, tắc thành chân chứng thánh. 何 謂 天 谷 蓋 人 頭 有 九 宮 中 有 一 所 名 曰 天 谷 . 清 淨 無 塵 能 將 元 神 安 置 其 中 毫 不 外 馳 則 成 真 証 聖 (Thiên cốc là gì? Đầu người có 9 cung, trong đó có một chỗ tên là thiên cốc. Thanh tịnh không nhiễm trần thì có thể đem nguyên thần an trí tại nơi đó, không mảy may [để nguyên thần] thoát chạy ra ngoài ắt sẽ chứng thành tiên thánh).

[11] Tử Thanh Chỉ Huyền Tập 紫 清 指 玄 集 giải thích: Trung hữu ứng cốc giáng cung, tàng khí chi phủ dã. Hậu thế xưng vi trung đan điền 中 有 應 谷 絳 宮 藏 氣 之 府 也 . 後 世 稱 為 中 丹 田 (Bên trong có ứng cốc [tức là] giáng cung, là nơi chứa khí. Người đời sau gọi là trung đan điền.)

[12] Tử Thanh Chỉ Huyền Tập 紫 清 指 玄 集 giải thích: Hạ hữu linh cốc quan nguyên, tàng tinh chi phủ dã. Hậu thế xưng vi hạ đan điền 下 有 靈 谷 關 元 藏 精 之 府 也. 後 世 稱 為 下丹 田 (Phía dưới có linh cốc [tức là] quan nguyên, là nơi chứa tinh.)

[13] Dans les trois sections du corps, ils (les Taoïstes) placent trois régions principales, l’une dans la tête, la deuxième dans la poitrine, la troisième dans le ventre. Ce sont en quelque sorte les portes du commandement de chacune des sections. On les appelle les Champs de Cinabre dantian (đan điền) pour rappeler le nom de l’élément essentiel de la drogue d’immortalité, le cinabre. Le premier, ou Palais du Nihuan (Nirvâna) est dans le cerveau; le deuxième, le Palais Écarlate, est près du cœur; le troisième, le Champ de Cinabre inférieur, est au-dessous du nombril. Henri Maspéro, Le Taoïsme, p. 92.

 Thiên cốc (thượng đan điền) cũng gọi là tính căn 性 根 là nơi phát xuất tư duy thần chí, sách Tu Chân Thập Thư 修 真 十 書 (quyển 3) gọi đó là «nơi tụ tập của vạn thần» 萬 神 會 集 之 鄉 (vạn thần hội tập chi hương), tức là não bộ 腦 部. Sách Kim Đan Đại Thành 金 丹 大 成, chương Kim Đan Vấn Đáp 金 丹問 答, bảo: «Não vi thượng điền.» 腦 為 上 田 (Não là thượng [đan] điền). Thượng đan điền cũng gọi là thâm uyên 深 淵 hay thái uyên 太 淵. Chu Dịch Tham Đồng Khế Phát Huy 周 易 參 同 契 發 揮, quyển trung, nói: «Chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ quy trung.» 真 人 潛 深 淵 浮 游 守 規 中 . C hân nhân ở đây là nguyên thần 元 神; thâm uyên là thái uyên hay thượng đan điền. Sách Chu Dịch Tham Đồng Khế này đưa ra 67 thuật ngữ khác nhau cùng chỉ thượng đan điền như: 1. Nê hoàn cung 泥 丸 宮, 2. Lưu châu cung 流 珠 宮, 3. Ngọc Thanh cung 玉 清 宮, 4. Tử Thanh cung 紫 清 宮, 5. Thúy vi cung 翠 微 宮, 6. Thái Nhất cung 太 一 宮, 7. Thái huyền quan 太 玄 關, 8. Huyền môn 玄 門, 9. Huyền thất 玄 室, 10. Huyền cốc 玄 谷, 11. Huyền điền 玄 田, 12. Sa điền 砂 田, 13. Đệ nhất quan 第 一 關, 14. Đô quan 都 關, 15. Thiên quan 天 關, 16. Thiên môn 天 門, 17. Thiên cốc 天 谷, 18. Thiên điền 天 田, 19. Thiên tâm 天 心, 20. Thiên luân 天 輪, 21. Thiên trục 天 軸, 22. Thiên nguyên 天 源, 23. Thiên trì 天 池, 24. Thiên căn 天 根, 25. Thiên đường 天堂, 26. Thiên cung 天 宮, 27. Càn cung 乾 宮, 28. Càn gia 乾 家, 29. Giao cảm cung 交 感 宮, 30. Ly cung 離 宮, 31. Thần cung 神 宮, 32. Thần thất 神 室, 33. Thần quan 神 關, 34. Thần kinh 神 京, 35. Thần đô 神 都, 36. Huyền đô 玄 都, 37. Cố đô 故 都, 38. Cố hương 故 鄉, 40. Cố khâu 故 丘, 41. Cố lâm 故 林, 42. Cố cung 故 宮, 43. Tử phủ 紫 府, 44. Tử đình 紫 庭, 45. Tử kim thành 紫 金 城, 46. Tử kim đỉnh 紫 金 鼎, 47. Chu sa đỉnh 朱 砂 鼎, 48. Hống đỉnh 汞 鼎, 49. Ngọc đỉnh 玉 鼎, 50. Ngọc thất 玉 室, 51. Ngọc kinh 玉 京, 52. Ngọc vũ 玉 宇, 53. Diêu phong 瑤 峰, 54. Đệ nhất phong 第 一 峰, 55. Tối cao phong 最 高 峰, 56. Chúc Dung phong 祝 融 峰, 57. Côn Lôn đỉnh 昆 崙 頂, 58. Không Động sơn 崆 峒 山, 59. Bồng Lai 蓬萊, 60. Thượng đảo 上 島, 61. Thượng kinh 上 京, 62. Thượng cung 上 宮, 63. Thượng huyền 上 玄, 64. Thượng nguyên 上 元, 65. Thượng cốc 上 谷, 66. Thượng thổ phủ 上 土 釜, 67. Thái vi cung 太 微 宮. Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ 性 命 圭 旨 (nơi Phản Chiếu đồ 反 照 圖) đưa ra 47 thuật ngữ khác nhau của thượng đan điền. Ngoài 21 danh từ đã kể trùng lặp trong Chu Dịch Tham Đồng Khế Phát Huy, Tính Mệnh Khuê Chỉ còn kể thêm các thuật ngữ: 1. Thanh hư phủ 清 虛 府, 2. Thượng thiên quan 上 天 關, 3. Tam ma địa 三 摩 地, 4. Hoàng phòng 黃 房, 5. Chân tế 真 際, 6. Bỉ ngạn 彼 岸, 7. Diêu trì 瑤 池, 8. Nê hoàn 泥 丸, 9. Nội viện 內 院, 10. Liêu thiên 寥 天, 11. Đế Ất 帝 乙, 12. Tắng sơn 甑 山, 13. Thiên phù 天 符, 14. Ma ni châu 摩 尼 珠, 15. Ngọc kinh sơn 玉 京 山, 16. Thái uyên trì 太 淵 池, 17. Uy quang đỉnh 威 光 鼎, 18. Bát nhã ngạn 般 若 岸, 19. Ba la mật địa 波羅 密 地, 20. Bách linh chi mệnh trạch 百 靈 之 命 宅, 21. Tân dịch chi sơn nguyên 津 液 之 山 源, 22. Viên giác hải 圓 覺 海, 23. Trung nhất cung 中 一 宮, 24. Đà la ni môn 陀 羅 尼 門, 25. Não huyết chi quỳnh phòng 腦 血 之 瓊 房, 26. Hồn tinh chi ngọc thất 魂 精 之 玉 室.

[14] Tu chân biện nạn tiền biên, tr. 25a.

[15] Xướng đạo chân ngôn, tr. 10b có một đoạn nói về Hư trong con người.

[16] Tính mệnh khuê chỉ, quyển Hanh.

[17] Nê hoàn, Thần chi bản cung dã. Thần qui nê hoàn tắc vạn thần triều hội. Tử dục bất tử tu Côn Lôn thị dã. 泥 丸 神 之 本 宮 也 . 神 歸 泥 丸 則 萬 神 朝 會 . 子 欲 不 死 修 昆 崙 是 也 . Nhập dược kính, tr. 10b.

[18] Aucun Yogi ne cherche «le Ciel» mais l’union avec ce qui est la source de tous les mondes. Arthur Avalon, La Puissance du Serpent.

[19] Only the mystic can be called a whole man, since in the other half, the powers of the self always sleep. --   Everlyn Underhill, Mysticism, p. 75.

[20] Thiệu tử vân: Vô ngã, nhiên hậu vạn vật giai ngã. Thử thị chí ngôn, diệc thị chân quyết 邵 子 云 : 無 我 然 後 萬 物 皆 我 . 此 是 至 言 亦 是 真 訣 (Vô ngã rồi sau vạn vật mới đều có ngã. Thực chí lý vậy). Tựu Chính lục, tr. 3b.

[21] Tống Long Uyên, Đạo đức kinh giải nghĩa, tr. 16a.